Tuesday, November 19, 2019

Hát Với Tôi Hát với tôi trong nỗi vui hay trong cơn buồn Hát với tôi qua tiếng reo hay bằng lời than Đời đẹp thì ta hát vẻ vang Đời buồn thì ta hát nỉ non Đừng ngậm miệng im hơi thành xác không hồn Hát với tôi khen rất ngoan hay là chửi toang Đời này tròn hay méo rồi vuông Đời còn cần ta hát nhặt khoan Một nghìn đời sau ta còn hát ầm vang. Hát với tôi nào ! Hát với tôi nào ! Hát với nhau những lời hôm nay cùng hát Hát với tôi nào ! Hát với tôi nào ! Hát với nhau những lời của người Việt Nam. Hát với tôi trong lúc chơi hay trong khi làm Hát với tôi trong đám đông hay trong phòng loan Từ vỉa hè thơm cát bụi đen Từ ruộng đồng xanh ngát thần tiên Từ biển vàng lời ca vượt sóng lên ngàn Hát với tôi thương lúa non không ưa phũ phàng Hát với tôi thương cánh hoa sớm nở chiều tan Buồn vì người gieo giắc lầm than Mừng vì còn mong ước người hơn Vì lòng còn tin yêu còn hát nghìn năm. Hát với tôi nào ! Hát với tôi nào ! Hát với nhau những lời hôm nay cùng hát Hát với tôi nào ! Hát với tôi nào ! Hát với nhau những lời của người Việt Nam. Hát với tôi khi sắp chui vô trong quan tài Hát với tôi khi mới mang thân phận bào thai Vào cuộc tình đôi lứa sục sôi Vào tuổi già êm như làn khói lưng trời Hát với tôi trong cõi tim sâu xa tuyệt vời Hát với tôi vươn mãi ra đến tận mù khơi Đừng thèm nhờ máy hát lạ tai Đừng thèm nhờ ai hát hộ ai Để lòng mình dâng lên miệng hát đầy vơi. Hát với tôi nào ! Hát với tôi nào ! Hát với nhau những lời hôm nay cùng hát TRÊN ĐẦU SÚNG https://ketnoingaydem.com/loi/-/bai-hat/tren-dau-sung-/4eca6413-ccfe-462c-9f10-a44c758bf7da LỜI BÀI HÁT TRÊN ĐẦU SÚNG Lời bài hát Trên Đầu Súng Trên đầu súng quê hương . . . tổ quốc đã vươn mình Trên lưỡi lê căm hờn . . . hờn căm như triều sóng Ôi xôn xao . . . chiêng trống hối thúc Đã giục giã khắp . . . chốn rộn rang Ôi lửa thiêng dậy bập bung Tay đốt….. lửa tay vung kiếm Trên đầu súng xâm lăng . . . xiềng xích với bạo tàn Trên lưỡi lê nô lệ . . . cùm gông phải gục ngã Tay nâng niu . . . cây súng súng thép Với đạn đồng mới . . . đã lên nòng Và những loạt đạn đồng vàng Vun lúa . . . trổ tràn đồng sâu Điệp khúc: Cho quê hương ta rạng ngời Cho yêu thương xanh vời vợi Cho quê hương ta những đoá tuổi xuân Để mai đây nghe nắng dậy hoà bình Ðể ông cha còn[nắm đất phủ mình Ôi quê hương ta nước Việt…. Nam từ đó dâng lên . . . nhà máy với công trường Những xí nghiệp ngôi trường . . . nhà thương và hầm mỏ Ôi bao la . . . thăm thẳm bát ngát Cánh đồng vàng . . . với lũy tre xanh Và tiếng ê a đầu làng Là kinh nguyện cầu cho người gục xuống Thúc Quân Dồn trong đêm vắng ngàn tiếng đồng loa vang lừng Đầu người lô nhô sát theo bờ núi sông hò reo Thây tan trong khói mây. Tiến quân! Tiến quân theo! Nơi chốn sa trường dân Nam hồn thúc oai vang đời Việt Nam hận đời đời Diệt quân Nguyên, quân lướt tới thây kề thây Máu tuôn rơi theo nẻo đường Mây nước chập chùng đi về đâu Việt Nam hận đâu! Nhìn trong hơi gió thoảng bóng quân Nam lướt đi Thề cùng diệt tan giống tham tàn thúc quân vùng lên! Nơi đây đất nước Nam biết bao đấng anh linh Xương trắng xây thành cố tâm đền núi sông ơn nhà. THUC QUÂN Dồn trong đêm vắng ngàn tiếng đồng loa vang lừng. Đầu người lô nhô sát theo bờ núi sông hò reo. Mây tan trong khói mây tiến quân tiến quân theo Nơi chốn sa trường dân Nam hồn thác oan cõi đời Việt Nam hận đời đời diệt quân Nguyên quân lướt tới... thây vì thây Máu xương rơi theo mồ đường mây nước chập chùng... đi về đâu? Việt Nam hận đời đời... (Tiếng kèn...) Nhìn trong hơi gió thoáng bóng quân Nam lướt đi Thề cùng diệt tan giống tham tàn thúc quân vùng lên Nơi đây đất nước đang tiễn bao đấng anh linh Xương trắng xây thành cố tâm đền núi sông ơn nhà. (Nhạc dạo) Dồn trong đêm vắng ngàn tiếng đồng loa vang lừng. Đầu người lô nhô sát theo bờ núi sông hò reo. Mây tan trong khói mây tiến quân tiến quân theo Nơi chốn sa trường dân Nam hồn thác oan cõi đời Việt Nam hận đời đời diệt quân Nguyên quân lướt tới... thây vì thây Máu xương rơi theo mồ đường mây nước chập chùng... đi về đâu? Việt Nam hận đời (Tiếng kèn...) Nhìn trong hơi gió thoáng bóng quân Nam lướt đi Thề cùng diệt tan giống tham tàn thúc quân vùng lên Nơi đây đất nước đang tiễn bao đấng anh linh Xương trắng xây thành cố tâm đền núi sông ơn nhà. Music is an interpretive of art, use your own creativity for music. Am Dm G C F Dm E/Dm trở về Am A Better Way to Learn Major Pentatonic on Guitar https://youtu.be/fqquDSEelms Learn Flamenco Rumba on guitar - Easy Strumming tutorial in 3 steps https://youtu.be/E9_NxA0eu3g [Guitar] Hướng dẫn – Điệu Rumba và Bolero Minh Anh Guitarist https://youtu.be/qvcaUC_TaZc Rumba Flamenca: Basic Right Hand Moves JamPlay https://youtu.be/77ScJgcOhZ0 Tips to Learn the Notes on your Guitar | Steve Stine Guitar Lesson https://youtu.be/rDfw2jRF898 arpeggiate right hand chords https://youtu.be/oq53FM9vDiY Piano Tutorial 18: Fills, part 1 https://youtu.be/NwaPysEJxHQ 5 Best Classical Guitars for Beginners 2017 Alamo Music Center https://youtu.be/9Du7kVb28Kg Piano Tutorial 19: Fills Part 2 Grace Immanuel Bible Church https://youtu.be/I8751RdJed8 Piano Lessons: "Intros, Fillers and Endings" Ch. 1 /PlayPianoTODAY.com https://youtu.be/f_9gRF0hWio Miền Bắc là chiến trường "A"; Miền nam là chiến trường "B" (từ B1 đến B5); Lào là chiến trường "C"; Kampuchia là chiến trường "K"; Có thêm Thái lan là chiến trường "T" hay "X" (Xiêm) Tập lead bài hát điệu ballad – Hoa bằng lăng (intro & chuyển đoạn) | Tutorial Lead #9 https://youtu.be/52wS22pYs34 Hướng dẫn guitar & Intro | Hoa bằng lăng (Jimmy Nguyễn) - Mendy Nguyễn GCB https://youtu.be/2UAfBeTtLMU "Twinkle, Twinkle" with chords & Alberti Bass https://youtu.be/2ZhWmNmBfeA Left-Hand Bass Styles For Piano: The Alberti Bass Style https://youtu.be/8ppxfmAKqbE Left Hand Styles - Lesson 5: Alberti Bass Karen Ramirez https://youtu.be/0wl9Kl4dLbs (9:37) Ode joy Play The Same Song a Dozen Different Ways   Duane Shinn https://youtu.be/OC2EzEvobtw C GCE (version Left Hand Styles - Lesson 7: Open Chords] https://youtu.be/Y30VLeNk4MM The Best Way to Count Rhythms Accurately https://youtu.be/lK0V54_E0bk Nhạc Rừng Khuya - Hợp Ca Asia | ASIA 77 https://youtu.be/fHSLUPzw734 https://youtu.be/yz4NqObQVQ8 The Little Drummer Boy - Piano Tutorial - How to play christmas songs on piano https://youtu.be/3FHwt_Tmr0k Little Drummer Boy (Piano) KaizerDFT https://youtu.be/CYLbBwpNVVM Thay dây nilon vào đàn acoustic và ngược lại được không? Huỳnh Văn Bảo https://youtu.be/B22ToaCRK2w kỹ thuật đi bas trong bolero, lead 4 Tran gia Anh - John nguyen https://youtu.be/Eu0AvLsLz_Y Nền Hòa Bình Tàn Nhẫn - The Cruel Peace: South Vietnamese democided by Vietcong after 1975 https://vuonlenmai.blogspot.com/2019/02/nen-hoa-binh-tan-nhan-cruel-peace-south.html [Slow Rock] Thành Phố Buồn - Hướng Dẫn Guitar SlowRock   Guitar Vinh Khanh https://youtu.be/qyUSyUZwGwc8:18 quạt dây [Guitar] Hướng dẫn: Thành phố buồn   Minh Anh Guitarist https://youtu.be/kWWTPlK_GdU LÀM QUEN VỚI LÍNH Thương chi em ơi thân trai đời sương gió, Tháng tháng tiếp nối mấy khi về thăm nhà, Rừng sâu núi xa chân quen ngày đêm, Gian nan vai mang phút giây nào xa rời. Vui được có bao nhiêu, Thôi em đừng làm quen Lính không phải là mộng mơ. Đừng dùng toàn lời ngọt trên đầu môi, Nếu có thương lính, nếu có yêu lính, Xin yêu màu da cháy đen vì nắng sa trường, Khi anh về thăm, đi trên đường phố không diện đẹp bằng mọi người, Xin em đừng chê, lính tráng giầy sô áo kaki mà đẹp gì. Em ơi, em ơi... nếu em thật thương lính, Mấy núi, mấy suối, mấy sông nguyện anh tìm. Dù bao tháng năm vẫn xa người yêu em, Anh luôn thương em nhớ em và chung tình. Thôi mình nhớ nghe em, nay đôi mình làm quen, Nếu em một lòng đợi chờ. TÁN GẨU SÁNG THỨ BẢY 19/10/2019 https://youtu.be/cs7kZMywNk8 https://hiveminer.com/Tags/1969%2Cvietnamwar http://www.cnpps.org/2013-01/11/content_6409980_6.htm Lịch Vạn Niên http://www.thoigian.com.vn/?mPage=D120120902 *Anh Hùng Xưa* Melody: Chinese Words: Vietnamese Nhạc (Tàu) Hoa - lời Việt *Dân ca cổ truyền của người Hoa, (nhưng sau trở thành người Việt vì người Việt mượn nhạc viết lời) 1) Anh Hùng Xưa, Nhớ thời là thời niên thiếu, Dấy binh lấy lau làm cờ, Quên mình là mình giúp nước, Hết sức giữ gìn đất nước. Dấn thân khắp nơi nguy nàn, Lừng danh ngàn thu đất bắc. Sứ quân khắp nơi kinh hồn, Tiếng lừng nước Nam! 2) Hai Bà Trưng, Thấy lòng là lòng đau đớn, Xót xa nước nam điêu tàn, Thù chồng cùng đền nợ nước. Hết sức giữ gìn đất nước. Quyết tâm quét tan quân thù, Chàng Tô là Tô khiếp vía! Phá tan sáu mươi lăm thành, Đất trời lưu danh. chức năng, tính năng, khả năng, kỹ năng Cây Bút http://thanh-thanh-caybutblogspotcom.blogspot.com/ pw: Cây Bút 2 http://caybut2.blogspot.com/ pw: cây bút 3 http://nguyenvanguyen.blogspot.com/ pw: Hy Vọng http://hyvong90.blogspot.com/ pw: Hy Vọng 2 http://nguyenus90.blogspot.com/ pw: Hy Vọng 3
http://nguyenandnguyen.blogspot.com/ pw:

Vươn Lên
http://nguyenandmai.blogspot.com/ pw:
https://plus.google.com/108706565857302325271
Vươn lên http://vuonlenmai.blogspot.com/ pw: https://plus.google.com/u/0/100932946684103011667 Lính Nghĩ Gì https://caybut2.blogspot.com/2016/02/linh-nghi-gi.html KHÔNG QUÂN VNCH https://vuonlenmai.blogspot.com/2019/02/khong-quan-vnch-khong-quan-vnch-2-khong.html photo 10707_zpsv3wca8gz.jpg Link:



KHÔNG QUÂN VNCH

 

móc quạt móc chách quạt bass ĐIỆU BALLAD - SLOW SURF https://youtu.be/1FWqg30k8BM Điệu SLOW SURF https://youtu.be/9MwWV_IY9i0 TỰ HỌC GUITAR CƠ BẢN Bài 1: Đàn guitar thùng và những điều căn bản nhất cho người mới học https://youtu.be/4qRFh8YmASs https://youtu.be/EONOJaDh2cI ~CÁCH CẦM PHÍM ĐÀN VÀ BẤM DÂY~ ⓖⓤⓘⓣⓐⓡ ♬ ♪ ♩ ♫ Amigos ~~~~~ http://quynhtramvietnam.blogspot.com/2013/12/3041975-duong-van-minh-va-toi-nguyen.html 30/4/1975, DƯƠNG VĂN MINH VÀ TÔI - NGUYỄN HỮU THÁI KẺ ĂN CƠM QUỐC GIA THỜ MA CỘNG SẢN http://quynhtramvietnam.blogspot.com/2013/12/3041975-duong-van-minh-va-toi-nguyen.html Ba mươi ba năm đã trôi qua sau sự kiện lịch sử cưỡng chiếm và đánh tan nền chính thể Cộng Hòa của miền nam Garden hose aerator adapter M/F to M 15 Cleaning Hacks Crusty Oven/Orange peal-Vinegar - soak for 5 day https://youtu.be/9swNxTSU7Gg độc ác dữ dằn Folding Foot Stool trình độ lý luận Bathroom Non-Slip Bath Chair https://www.amazon.com/Stainless-Portable-Bathroom-Non-Slip-Pregnant/dp/B07G19BJJZ thi nguyen4 minutes ago (edited) Bọn Việt cộng con, Việt cộng nhãi nhép đuối lý chỉ biết cách chống chế cho sự nghèo nàn miền bắc trước khi cưỡng chiếm miền nam, và sự hoa lệ của thủ đô Sài Gòn khi chúng vào miền nam chiếm được chúng cho chở máy móc, tiền bạc về bắc mà miền nam có được. Các đầu bò Việt cộng con này đều cho là "nhờ đồng tiền Mỹ" mà miền nam mới đẹp, cái đầu bò suy luận của VC bây giờ, nó vẫn ló cái gốc sống hang Pắc Bó, cái gốc từ chui lỗ Củ Chi, từ nón cối dép râu tai bèo, khăn vằn ca rô mà thôi. Khi còn khẩu súng trong tay, khi còn nhiều của cải, và còn sức mạnh đầy đủ, hoặc còn ở một nước tự do thì bạn không bao họ giờ thấy hay biết cộng sản như thế nào, cộng sản luôn cho bạn thấy họ là người yêu chuộng hòa bình, chiến đấu cho công bằng, vì khi bạn còn vũ khí trong tay, bạn có thể bắn chết nó (cộng sản) hãy tin rằng chắc chắn không bao giờ Việt cộng làm mất lòng bạn, chúng sẽ tìm mọi cách ve vãn, nào là hòa bình, tình người, hữu nghị, có khi tâng bốc bạn lên cao ngất ngưỡng để làm sao cho bạn lỏng tay súng, cất súng, hoặc bẻ súng đi. Một khi bạn đã bẻ súng đi, thì lúc đó, bạn sẽ bắt đầu hiểu cộng sản, chúng là một con quỷ có sừng, mà khi đã hiểu ra được cộng sản, thì đã muộn, muộn lắm rồi. Các bạn thấy mình đã nói có sai đâu? Lúc đầu bạn Cộng sản này so sánh miền Nam Việt Nam với Hàn Quốc. Rồi khi được hỏi: 1) Trả lời trực tiếp, ngắn, và gọn: Từ 1950 tới 1960, Xã hội nào phát triển hơn: Seoul hay Sài gòn? 2) Trong những năm 40-50-60, trong các 2-3 chục quốc gia châu Á kể cả ẤN ĐỘ, 2 quốc gia nào ra lò xe 4 bánh, tiền nhân của các xe 4 bánh hiện đại ? Cả hai câu hỏi đơn giản thế mà bạn ấy lại giả câm không biết như thằng HCM. Rồi khi bắt đầu thấy "ghế nóng" thì CHẢ AI BIẾT bạn ấy móc từ đâu ra hay từ ai nói: Đem Do Thái vào! so sánh trực tiếp Việt Nam với Do Thái không! Một lần nữa, một câu hỏi để chứng minh, bạn Cộng sản ấy lại giả câm như thằng khốn nạn HCM. Xin hỏi lại bạn du học sinh, học sinh điểm cao các môn về thằng HCM: "Từ 1950 tới 1960, Xã hội nào phát triển hơn: Seoul hay Sài Gòn? " Seoul, 1950: Chỗ này là NGÂY trung tâm Seoul vì cái cột nước và ống dẫn nước chữa cháy ngầm (năm 1950). Khi bạn còn vũ khí trong tay, bạn có thể bắn chết nó (cộng sản/Việt cộng) hãy tin chắc chắn không bao giờ Việt cộng làm mất lòng bạn, chúng sẽ tìm mọi cách ve vãn, nào là hòa bình, tình người, hữu nghị, để làm sao cho bạn lỏng tay súng, cất súng, hoặc bẻ súng đi. Một khi bạn đã bẻ súng đi, thì lúc đó, bạn sẽ bắt đầu hiểu cộng sản, chúng là một con quỷ có sừng, mà khi đã hiểu ra được cộng sản, thì đã uộn, muộn lắm rồi. mục tiêu của cộng sản là tiêu điệt các tư tưởng, mọi quan điểm không là cộng sản; Khi Viêt cộng sản cần ai thì chúng nâng người đó lên tận mây xanh, chúng đón rước như một ông thánh. Chúng trải nhung dọc đường phố trước chủ tịch phủ để Shihanouk đi, đồng thời, Đài phát thanh, loa phóng thanh ngày đêm ra rả ca bài hát “Nhân Dân Đông Dương” mà chúng bốc thơm rằng - đây là nhạc và lời của thái tử Shihanouk, chúng ta dịch sang Việt ngữ. nhất là tư tưởng vua ch úa, vương quyền, muốn cưỡi cổ nhiều người của mấy ông hoàng bà chúa này. 40:18 Hồi xưa Quảng Đông là của Việt Nam phải không chú TNP? VÔ ĐỀ SÁNG CHỦ NHẬT 5/5/2019 https://youtu.be/NX2hJCdPqPI TNP: Đúng! Nếu không có cái tốt hoàn toàn, chúng ta phải chọn cái tốt vừa vậy. Dương Văn Minh và bè lũ đã lật đổ và giết chết ông Diệm, phải nhận một trong hai lỗi lầm, hoặc cả hai sau đây: – Không nhìn thấy cái lợi ghê gớm cho Cộng Sản. – Nhìn thấy, nhưng vẫn gục đầu mà làm. Không một lý do nào, không một biện luận nào, không một quốc tế này, tình hình kia, có thể phủ nhận thỏa đáng hai điểm trên. Vậy, nếu ở điểm: 1) Các ông làm chính trị, các ông không nhìn thấy một điểm sơ giản như thế. Các ông không đủ khả năng lãnh đạo quần chúng nhân dân là chúng tôi đâu! Dẹp! 2) Các ông đã để cá nhân các ông lên trên Tổ Quốc. Loại này cho đi tầu suốt! Những điểm lợi cho Cộng Sản thì nhiều, nhưng điểm ghê gớm nhất là: Khi một chế độ có cuộc đảo chính, mà cuộc đảo chính đó chỉ có mục đích tranh giành quyền lợi cá nhân, muốn ăn chia xôi thịt. Lúc đó sẽ xẩy ra tình trạng gì? Điểm cao 950 (Hill Hickory) của núi đá Rockpile sát đường 9 gần Camp Carroll là trạm tiếp vận và nơi thu nhận tín hiệu cây nhiệt đới và hàng rào điện tử để chuyển về Nakhon Phanom (Thái Lan) Lockheed PV2-5F thường hoạt động dọc biên giới Lào-Việt nơi không có những trạm tiếp vận Hệ thống Nakhon Phanom (Thái Lan) → Hill 950 (Hill Hickory) → Hill Rockpile → Camp EVANS được Mỹ gọi là CCN (Command & Control North) Tại Nam Việt Nam có 3 hệ thống – tại Quảng Trị là CCN (Command & Control North) gọi là Trạm Bắc - tại Kontum là CCC (Command & Control Central) - tại Ban Mê Thuột là CCS (Command & Control South) 10 Standard Left Hand Patterns for piano PianoBible.com Learn To Play: Left hand arpeggios in 3/4 https://youtu.be/L8Ec61BjJvE Left Hand Styles - Lesson 7: Open Chords Karen Ramirez 3 Left Handed Patterns For Beginner Piano Players - https://youtu.be/BwlXoxAPBF0 Left Hand Styles - Lesson 1: 4-Beat Chords https://youtu.be/uv9c24_eJ84 Left Hand Styles - Lesson 2: Rolling the Chord https://youtu.be/JsJkFQ8SoZI Left Hand Styles - Lesson 3: Root - Chord https://youtu.be/89XgrFu7BgE Left Hand Styles - Lesson 4: Octave Bass https://youtu.be/MDRZd_p8iR0 Left Hand Styles - Lesson 5: Alberti Bass https://youtu.be/0wl9Kl4dLbs Left Hand Styles - Lesson 6: I-V-I Karen Ramirez https://youtu.be/LmnexwPbBAw Left Hand Styles - Lesson 7: Open Chords https://youtu.be/Y30VLeNk4MM hát bolero siêu hay cách lót câu trong điệu cha cha cha Trần Khánh Productions https://youtu.be/ubFa7LSusfs @dolinhVNCH https://www.facebook.com/dolinhVNCH/ Đồ lính Cộng Hòa https://www.facebook.com/pg/dolinhVNCH/photos/?ref=page_internal

 

giá trị của Hoa Kỳ: tự do VBTCC Viên Ngọc Nát Phần 1 https://youtu.be/hX3z1i6iGJE VBTCC Viên Ngọc Nát Phần 2 https://youtu.be/lMQbewXyLr4 VTV đọc là vê tê vê chứ không phải vờ tờ vờ như lối cải cách tiếng Việt vào năm 1979 và 1983. http://mythuat.proboards.com/thread/760/tai-lieu-chien-su?page=2 Cải cách tiếng việt cải cách chính tả, cải cách cách đọc vần, đánh vần tiếng Việt và cải cách đánh dấu tiếng Việt vào năm 1983 cải cách chỉ là bức bình phong với mục đích để xóa bỏ dấu tích văn hóa miền nam. Vô hiệu hóa các hệ thống biến cố /sự kiện Phi Đoàn Thiên Long 718 - Không Thám Điện Tử https://vuonlenmai.blogspot.com/2019/02/phi-oan-thien-long-718-khong-tham-ien.html b0 - Năm 54, Hà Nội người có học còn rất it. Những người học nhiều, tài giỏi, giầu có đã vào bỏ của, chạy vào Miền Nam cả rồi (ông Nội tôi đã bỏ cả dãy phố Hàng Bè để chạy vào Nam) miền nam tích tụ được tất cả những thành phần tinh hoa của những đất nước được bồi thêm từ những dân di cư 1954 chưa bị nhiễm cộng sản. b0 Chỉ còn con số nhỏ lẻ vì tiếc của nên ở lại mà thôi. Ngay nhà tôi chỉ có bà bác ở lại vì có người tình ở Hà Nội, và một phần cũng vì ham của (ở lại giữ nhà). Nhưng Việt cộng có cho giữ của đâu, bảo của này là của ông nội tôi, và ông nôi tôi là thành phần địa chủ (có nhà cho thuê), rồi VC tịch thu luôn, phát lại cho cán bộ VC (toàn đám dân gốc nhà quê ít học theo Việt Minh). b0 Đây là nguồn gốc tại sao dân Hà Nội ngày nay toàn bọn nói eo éo nghe chói tai (vì ông cha chúng nó là dân nhà quê, ăn cướp nhà của người Hà Nội đã di cư vào Nam). b0 Ông cố nội em đợt đó cũng chủ quan nên không chạy, sau bị nạn Cải Cách Ruộng Đất. Vì cụ nghĩ là xử thì có xử địa chủ, cụ không có nhiều đất, và cụ thì giàu lên là do buôn bán. Thêm nữa là vì đất hương hỏa tổ tiên nên cụ không muốn đi. Bạn của cụ thấy nguy, đã rủ cụ chạy sang châu Âu (hình như là Hà Lan) trước, nhưng cụ không nghe. thi nguyen13 minutes ago (edited) chữ G = giê (con chó bẹc giê) , chữ G bây giờ ít ai đọc là "gờ", mà là chữ giê = G. Sau 1975 , tập đoàn cai trị VC (vi xi) cho cải cách chữ và âm, những âm cờ, gờ, mờ, lờ, hờ, sờ, xờ... theo lối của nhà nước Việt cộng (communist rulers). Nhưng về sau, lối cải cách tùy tiện này bị gặp rắc rối, khó khăn khi đánh vần (chữ s và x sờ chim hay sờ bướm...). Nhiều người đã trở lại lối cũ trước khi bị giải phóng và chữ và âm đọc là b = bê c = xê g = giê và chữ r = e - rờ The electronic reconnaissance aircraft GỬI QUẢNG ĐỘ AKA ĐẶNG PHÚC TUỆ http://www.chinhkhiviet.net/2017/02/thieu-ta-lien-thanh-gui-quang-o-aka-ang.html SƯ ĐOÀN 21 BỘ BINH QLVNCH https://caybut2.blogspot.com/2018/05/su-oan-21-bo-binh-qlvnch.html
http://nguyenus90.blogspot.com/2014/02/toi-se.html

 

https://youtu.be/RwFYqdC63Io VNAF Wings Of Freedom https://youtu.be/HSOcEVVQyDg Bài 1 | Bài Kỹ Thuật Đầu Tiên Quan Trọng Nhất Khi Học Piano | Tuấn Lưu Piano |https://youtu.be/X_NcXwqM9Ks #2| Bài Kỹ Thuật Luyện Ngón Quan Trọng Thứ Hai Khi Học Piano | Tuấn Lưu Piano |https://youtu.be/IPRY-TerH9M #3| Cách Luyện Tập 6 Hợp Âm Đệm Hát Cho Tất Cả Các Bài Hát | Tuấn Lưu Piano | https://youtu.be/T-ar_E5fDHY #9 | Đệm Hát Piano Nhịp 6/8 | Hướng Dẫn Đệm Hát Piano Style Slowrock | Tuấn Lưu Piano |https://youtu.be/hVSXm747pZs https://gdb.voanews.com/055876BC-3F1C-42D3-87BF-24F6BF882EBA_cx0_cy14_cw0_w1200_s.jpg Ngày xưa lấn đất chiếm đất mạnh được yếu thua, nó là quy luật, thua thì không có gì để hận người mạnh hơn mình, mà hận vì nước mình không có ai hùng dũng lẫy lừng như Chế Bồng Nga, một bậc tiền bối của nước Chiêm. Cái Hận Đồ Bàn nó không có đau bằng cái hận Sài Gòn. Cái hận Sài Gòn là vì Tàu dùng người bắc Việt đánh giết người nam Việt, và cưỡng chiếm Sài Gòn hoa lệ cho Tàu, và Tàu nuốt trọn nước Việt không tốn một giọt máu nào của dân họ, mà có được một đất nước tiền rừng bạc biển của Việt Nam. Thuật dùng chữ "thống nhất" là một xảo thuật dối trá bịp bợm của cộng sản dành cho người ít suy nghĩ, nhưng sự thật "thâu tóm" về cho giặc Tàu là mưu đồ là mục đích, và chữ "thống nhất" làm bình phong để thâu tóm giang sơn, áp đặt một chế độ lên hai miền nam bắc nhưng chia đôi lòng người nam bắc hố sâu thù hận muôn đời không vơi. Tàu chỉ cần đưa súng cho bộ đội vô sản đi vào nam đánh dân nam để đổi lấy bát cơm. chỉ cần ban phát cho vài tên bắc kỳ chóp bu thật nhiều tiền và quyền sinh sát, chiếm đoạt của của để lên gân cho chúng, mà chúng dùng mỹ từ rót vào tai hứa hẹn hão mấy thằng việt cộng vô sản dốt nát cuồng đảng mà đánh miền nam cho Tàu không đổ máu mất mạng để chiếm nước. Cái hận Sài Gòn nó đau vô cùng, 歌 song bài hát 月Moon Month 月, 每月, 月份, 本月, 一月, 月底 Moon 月亮Bright, 月球, 月, 月光, 明月, 登月 Yue 月, Yue 越, Yue 悦, 岳, 曰, 粤Guangdong ADJ monthly 每月, 月, 月度, 月刊, 月报 đối với bất kỳ việc gì trên đời, nếu mình làm được những việc mà rất rất ít người có thể làm được thì mình mới đáng có credit, and deserve recognition. Chứ nếu đa số cũng làm được như mình thì việc làm của mình, cho dù hay, cũng không đáng nhắc tới nữa. Nếu các trường như Harvard, Stanford, Princeton, MIT, Caltech... mà có high admission rate, ai ai cũng vào được, thì tự nhiên phẩm chất giảm => uy tín (prestige) giảm theo. Tới lúc đó, cho dù có được nhận vào học các trường này, những người giỏi thật sự cũng sẻ cảm thấy chán. http://nguyenus90.blogspot.com/2014/07/ chiến tranh do bắc Việt chủ chiến/gây hấn, đặt cái gông cùm chuyên chính vô sản độc tài cộng sản lên đầu lên cổ người dân Việt Nam thì.. Tại Sao Phải Chọn Sài Gòn Làm Thủ Đô Trong Tương Lai? https://youtu.be/sjc4nusm0PI Không Lực VNCH/VNAF và Không Lực Hoa Kỳ The United States Air Force (USAF) hệ thống dùng chữ gần giống nhau. A - Attack / Chiến Đấu Cơ/ Khu Trục Cơ Thi dụ: Khu Trục A 1 Skyraider (Thiên Tướng) Chiến Đấu Cơ A- 37 Dragonfly/Oanh Tạc Cơ A-37 B - Bombing / Thả bom như Oanh Tạc Cơ B-52 C - Carrying / Transport aircraft/ Vận Tải / Không Vận như Vận Tải cơ C-130 F - Fight / Xung Kích máy bay Xung Kích thí dụ: Phản Lực Cơ F- 5. H - CH / UH- 1 Iroquois và CH- 47 Chinook hoặc Trực Thăng CH - 47 Chinook và UH-1 (Loại máy bay chong chóng) T - Trainer, Training = Trainer aircraft / Huấn Luyện = Phi cơ huấn luyện như: phi cơ huấn luyện T28, hay phi cơ huấn luyện T-38 Talon O & L= Observation and Liaison / Quan Sát và Liên Lạc như: Phi cơ Quan Sát và Thám Thính thí dụ: Cessna L-19/O-1 Bird Dog là một loại phi cơ Quan Sát và Thám Thính, (Việt cộng gọi là máy bay thám sát và liên lạc). Chú ý: Những trong binh chủng Không Quân VNCH và Không Quân Hoa Kỳ thì dễ nhận ra, thí dụ như: A, B, C, F, H và T... còn Việt cộng tuy cũng dùng tiếng Việt nhưng họ dùng máy bay Trung cộng và Nga nên nhiều chữ khác với VNCH. Thí dụ: Quân Lực, Không Lực Army Force, Air Force. trong khi Việt cộng và Trung cộng dùng chữ Quân Đội Nhân Dân = People Army, và giái phóng quân Trung Quốc và Quân đội Giải phóng Việt cộng hay Mặt Trận Giải Phóng v. v... Hà Nội Đốt Sách Sài Gòn Tại Sao Phải Chọn Sài Gòn Làm Thủ Đô Trong Tương Lai??? Vùng Đất Khai Sinh Thế Hệ Lãnh Đạo Mới.# 43 https://youtu.be/sjc4nusm0PI Video#3 : Điệu Valse - Gam C | Hướng dẫn tự học đàn CỰC DỄ | JERLYBEE GUITAR https://youtu.be/DVZ0_VmIBHo "Rừng Lá Thấp" | Trần Thiện Thanh | Hướng dẫn Guitar đệm hát | Bolero | JERLYBEE GUITAR https://youtu.be/Cj8ucI2Mhmo Hướng dẫn đệm và lead guitar bài. CĂN NHÀ NGOẠI Ô. https://youtu.be/QyEuZRbh6Iw Hướng dẫn intro và đệm guitar bài. Trăng Tàn Trên Hè Phố. https://youtu.be/HN2E4Zk_r6Y [Bolero] "Đêm buồn tỉnh lẻ" | Đan Nguyên | Hướng dẫn Guitar đệm hát | JERLYBEE GUITAR https://youtu.be/cIFmICxE1n8 [Bolero] Đêm Buồn Tỉnh Lẻ - Điệu Bolero Căn Bản https://youtu.be/LJv1uhMGKWU mọi so sánh đều ko xứng tầm! [Quạt Bolero] Về Đâu Mái Tóc Người Thương - Guitar Căn Bản https://youtu.be/LPxYvrHZbFI 3 Cách Quạt Guitar Bolero Dễ Tập | Guitar Bolero| https://youtu.be/9un9ekhWxJc CON ĐƯỜNG BUỒN HIU - Nhật Ngân, Elvis Phương Jul 6, 2018 Nguyễn Tất Nhiên & Những Bài Thơ Tình Phổ Nhạc Bất Hủ Nguyễn Tất Nhiên là một nhà thơ được nhiều người Việt Nam yêu thích. Đối với các nhà thơ khác thì người ta hâm mộ, còn đối với Nguyễn Tất Nhiên, người ta yêu thích do thơ của Nhiên rất hay, phóng khoáng, có những nét gần như kỳ lạ nhưng lại rất trẻ, rất hồn nhiên, cứ viết là viết, hễ thích là viết và viết rất gần gũi với cuộc sống con người. Sự nghiệp của Nguyễn Tất Nhiên thời gian đầu không mấy thành công, thơ in ronéo tặng cho các nữ sinh chẳng ai buồn đọc. Hai tập thơ xuất bản, gửi bán trong tiệm sách ở đầu chợ Biên Hòa, để lâu giấy vàng cả ra cũng chẳng ai mua. Cho đến khi thơ của Nhiên được một giáo sư trong trường Ngô Quyền, vốn yêu thơ và biết thơ của ông có giá trị nên gửi tới tạp chí Sáng Tạo ở Sài Gòn. Các nhạc sĩ Phạm Duy, Nguyễn Đức Quang thấy thơ của tác giả Nguyễn Tất Nhiên nào đó đăng trên Sáng Tạo rất hay và có ý lạ nên phổ nhạc, từ đó Nguyễn Tất Nhiên bắt đầu nổi tiếng. Trong số những bài thơ Nguyễn Tất Nhiên để lại, người con gái Gốc Bắc tên Duyên có một vị trí đặc biệt. Anh yêu người con gái ấy song không thể đến gần, bởi vì người đó cứ xa cách muôn trùng. Những tưởng Nguyễn Tất Nhiên sẽ chiếm được trái tim “người đẹp” khi tên cô ngân vang cùng nhạc Phạm Duy trong lòng bao nhiêu người yêu mến. Thế nhưng, người đẹp tên Duyên và nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên vẫn đường hai lối rẽ. Những bài thơ đã làm cho cái tên Duyên trở nên nổi tiếng và ý nghĩa. Cái ý nghĩa gắn với một tình yêu cuồng si của một tài thơ điên, phận mỏng. Nhưng đặc biệt là lúc khổ đau vì tình, thơ anh chùng xuống, gãy đổ, nát tan... và quả là anh đã ra đi thật sớm, trước thế hệ của anh, trên chiếc xe cũ, đậu dưới bóng cây, trong vườn một ngôi chùa ở California. Đời anh, lúc nào cũng đi sớm hơn kẻ khác. Đời không ruồng bỏ anh, cũng chẳng người tình nào ruồng bỏ anh. Chỉ có anh, tự ý đi thật sớm, rời bỏ cuộc đời, để lại một cõi thơ bát ngát. * List thơ Nguyễn Tất Nhiên phổ nhạc Phạm Duy 01. Cô Bắc Kỳ Nho Nhỏ 02. Em Hiền Như Ma Soeur 03. Thà Như Giọt Mưa 04. Hai Năm Tình Lận Đận 05. Trúc Đào 06. Vì Tôi Là Linh Mục 07. Anh Vái Trời Vì Tôi Là Linh Mục ca sĩ Tuấn Anh hải ngoại https://youtu.be/NmoD14zVO5I Khánh Ly hát Vì Tôi Là Linh Mục-Thơ Nguyễn Tất Nhiên-Nhạc Nguyễn Đức Quang Chiều Trên Đường Hồng Thập Tự 01. Cô Bắc Kỳ Nho Nhỏ 02. Em Hiền Như Ma Soeur 03. Thà Như Giọt Mưa 04. Hai Năm Tình Lận Đận 05. Trúc Đào Anh Bằng 06. Vì Tôi Là Linh Mục Nguyễn Đức Quang Vì Tôi Là Linh Mục - Nguyễn Đức Quang (thơ Nguyễn Tất Nhiên) 07. Anh Vái Trời Paraffin💡 Caramel Bread Pudding | Eggless & Without Oven | Custard Bread Pudding | Yummy Pudding RecipeJun 30, 2016 THEO ĐỊNH LUẬT CỦA TẠO HÓA, TÀI NĂNG RỒI CÙNG MAI MỘT THEO THỜI GIAN!!! DĨ NHIÊN CẢ 2 CA SĨ NÀY ĐỀU CÓ FANS RIÊNG. NẾU SO THỜI ĐỈNH CAO CỦA 2 NGƯỜI THÌ (THEO TÔI) : NGỌC LAN HÁT ĐƯỢC KHOẢNG 60 PHẦN TRĂM CỦA THANH LAN NGÀY XƯA. THANH LAN, KHÁNH LY VÀ LỆ THU NÊN GIẢ TỪ SÂN KHẤU ĐỂ GIỮ LẠI DƯ ẤM ĐẸP TRONG LÒNG KHÁN THÍNH GIẢ. Gia Đình Phạm Duy Hát 10 Bài Bình Ca của Phạm Duy. 10 Bình Calà sáng tác của nhạc sĩ Phạm Duy trong tập ca khúc Hoan Ca ra đời năm 1973. Tập Hoan Ca gồm 10 bài Bình Ca 04 bài Nữ Ca 02 Bài Đồng Dao. Trong video clip này, gia đình Phạm Duy trình bày toàn bộ 10 ca khúc Bình Ca. trong giai đoạn này, ban nhạc The Dreamers gồm Duy Quang, Duy Cường, Duy Hùng, Duy Minh, Julie, Ali (em gái của Julie) và Thái Hiền. https://youtu.be/YpZoIAvnkBw michael wong10 months ago Tiết tấu nhanh, mạnh, dứt khoát . Rất thích !!! Reply 11 Học lead trên đàn guitar-Bài 19- https://youtu.be/0b1yv1EsKfo Học lead trên đàn guitar-Bài 20-Chuyển hợp âm bằng cảm âm-phần 2. https://youtu.be/P0BT0lACvtw Theo em bài Bảo Tuấn trình bày nhanh, mạnh, dứt khoát, tròn chữ hơn Trung Tâm Asia » Asia Fans Lounge » The Beauty of Vietnamese Culture » SÀI GÒN, lịch sử, văn hóa, và kỷ niệm http://forum.trungtamasia.com/yaf_postst37p30_SAI-GON--lich-su--van-hoa--va-ky-niem.aspx#post98887 https://forum.trungtamasia.com/yaf_postst45p99_QUE-HUONG-and-DAN-TOC.aspx#post158973 #muji interior bathroom QUÊ HƯƠNG & DÂN TỘC Disclaimer 101 Pages«<979899100101> Thanh Lan - Oui Devant Dieu https://youtu.be/oZIffN5K-Ek TRÀ ĐÀM: "Bố già" Trần Thái Văn nói về những "đấm đá" hiện nay tại TP Westminster https://youtu.be/jLJEi5LWQl4 Á KHOA Valedictorian = thủ khoa 18 MAL HACKS UDN DESIGN IDEEN, FÜR DIE DU DANKBAR SEIN WIRST https://youtu.be/fi0OFYsQN1M 35 INGENIOUS DIYs WITH EVERYTHING THINGS https://youtu.be/q5eACSSevg0 5:32 35 GENIALE DIYs MIT ALLTÄGLICHEN DINGEN https://youtu.be/q5eACSSevg0 5:32 50 Brilliant Storage Ideashttps://youtu.be/iAgVxSXgAGw Jansen's DIY videoplayback.mp4 53:16 Parchment paper double sided fusible 27 HACKS NO MAN SHOULD TO KNOW https://youtu.be/1t_QhIlO7ik Etecera HOUSTON NHẬT KÝ P2 27/6/2019: TQ đã ép buộc các công ty nước ngoài chuyển giao kỷ thuật thế nào? https://youtu.be/oViTcHzrz1M

Saturday, September 6, 2014

 

Hành quân Lam Sơn 719: Nguồn gốc và khuyết điểm

Nguyễn Kỳ Phong

Chiến tranh Việt Nam có nhiều trận đánh khốc liệt; khốc liệt trong ý nghĩa về cường độ của hoả lực, cấp số quân tham dự, và số thương vong đôi bên. Những trận đánh thường được nhắc đến trong quân sử như trận tử thủ An Lộc, tháng 6-1972; trận tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị, tháng 9-1972; hai cuộc hành quân đánh qua Cam Bốt, Toàn Thắng 42 và Toàn Thắng 1/71, tháng 5-1970 và thaùng 1-1971; trận Ðồi 1062 ở Thường Ðức, Quảng Nam... Nhưng nổi bật hơn hết là cuộc hành quân tấn công vào những căn cứ hậu cần của cộng sản Việt Nam (CSVN) ở Hạ Lào vào tháng 2 năm 1971. So với các trận đánh vừa được kể tên, hành quân Lam Sơn 719 (HQLS719) lớn và khốc liệt hơn về mọi mặt.

Ngoài sự thương vong cao của đôi bên, HQLS719 còn được nói đến như một cuộc hành quân có nhiều khuyết điểm — khuyết điểm từ lúc soạn thảo cho đến khi thực hiện. HQLS719 còn được nhắc lại trong sự nghi ngờ đó là kế hoạch hành quân đã bị bại lộ từ lúc soạn thảo, nhưng cuộc hành quân vẫn được tiếp tục để đưa đạo quân Việt Nam Cộng hoà (VNCH) đi vào tử lộ. Bài viết này sơ lược lại nguồn gốc và khiếm khuyết của cuộc hành quân, dựa vào một số tài liệu được giải mật trong thời gian gần đây.

Tình hình tổng quát của VNCH vào cuối năm 1970

Trước khi nói về quyết định đưa đến HQLS719, chúng ta nhìn sơ qua tình hình chính trị và quân sự của VNCH trong năm 1970, và tình hình tổng quát của lực lượng CSVN ở Hạ Lào.

Năm 1970 là năm thành công nhất của VNCH từ sau khi chiến tranh bùng nổ mạnh vào cuối năm 1964. Chương trình Việt Nam hoá — Hoa Kỳ trao cuộc chiến lại cho Quân lực VNCH (QLVNCH) — đã tiến hành được hơn một năm, và sự thành công của QLVNCH trên mọi chiến trường được chứng tỏ khi CSVN cho lưu hành Quyết nghị 9 vào tháng 6-1969. [1] Quyết nghị 9 chỉ thị các bộ tư lệnh CSVN ở chiến trường B (chiến trường trong lãnh thổ VNCH, để phân biệt với chiến trường ở Lào và Cam Bốt), tránh đụng trận nếu có thể được; trở về chiến thuật du kích chiến để bảo vệ quân số; và chỉ nên đương đầu với VNCH trên mặt trận chính trị hơn là ngoài chiến trường. Song song với thành công về quân sự, những chương trình bình định nông thôn đã phá hủy hạ tầng cơ sở của CSVN, đem lại sự an ninh cho xã ấp ở miền Nam. Sự trù phú và số lúa gạo sản xuất trong năm 1969 và 1970 cho thấy sự thành công của chính phủ VNCH về mặt an ninh nội an và trong kế hoạch bình định, xây dựng nông thôn. [2]

Trung tuần tháng 3-1970, với sự hợp tác của tân chính phủ Lon Nol, QLVNCH và Hoa Kỳ tấn công và các căn cứ hậu cần CSVN ở bên trong lãnh thổ Cam Bốt. Cuộc hành quân Toàn Thắng 42 do các đơn vị ở quân đoàn III và IV, hai sư đoàn Thuỷ quân Lục chiến và Nhảy dù VNCH, và một số đơn vị Thiết kỵ và Không kỵ Hoa Kỳ thực hiện. Hành quân Toàn Thắng 42 đem lại kết quả ngoài sức tưởng tượng của Bộ Tổng Tham mưu VNCH và Bộ Tư lệnh MACV: số vũ khí và quân nhu dụng tịch thu được từ căn cứ hậu cần cộng sản đủ để trang bị cho 54 tiểu đoàn chánh qui; gạo tịch thu được đủ nuôi 50 ngàn quân của B-2 từ bốn đến sáu tháng (7.000 tấn gạo). Thiệt hại nhân sự của QLVNCH là 638 chết; 3009 bị thương. Phía Hoa Kỳ, 338 chết; 1525 bị thương. Thiệt hại CSVN là hơn 11.300 tử thương; 2.300 tù binh. [3] Thiệt hại của phía đồng minh tương đối nhỏ so với kết quả thu được.

Chiến thắng dể dàng [4] ở Cam Bốt đưa đến sự hăm hở cho Bộ Tổng Tham mưu VNCH, Bộ Tư lệnh MACV và Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương (trên nguyên tắc đây là bộ tư lệnh nằm trên đầu MACV). Sau khi hành quân Toàn Thắng 42 kết thúc vào tháng 8-1970, [5] dự kiến của đồng minh là, nếu số dự trữ của CSVN ở Cam Bốt nhiều như vậy thì các căn cứ tiếp liệu hậu cần nằm trên đường xâm nhập Hồ Chí Minh ở Hạ Lào phải chứa nhiều hơn. Ðầu tháng 11-1970 đô đốc John McCain của Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương yêu cầu đại tướng Creighton Abrams của Bộ Tư lệnh MACV điều nghiên một kế hoạch hành quân qua Hạ Lào để cắt đứt đường xâm nhập Hồ Chí Minh. Không giống như cuộc hành quân đánh qua Cam Bốt, đô đốc McCain thông báo, kế hoạch đánh qua Lào có một giới hạn: Hoa Kỳ chỉ yểm trợ về không vận và không lực. QLVNCH là lực lượng đánh vào mục tiêu; cố vấn Mỹ của các đơn vị VNCH không được tháp tùng với đơn vị qua bên kia biên giới với bất cứ lý do gì. [6] Ðầu tháng 12-1970, Bộ Tư lệnh MACV loan báo và thăm dò ý kiến Bộ Tổng Tham mưu VNCH về một kế hoạch đánh qua Hạ Lào.

Lào và đường xâm nhập Hồ Chí Minh

Vương Quốc Lào. Ðầu năm 1971, khi VNCH chuẩn bị tấn công vào những căn cứ hậu cần trên lãnh thổ Lào, thì Hoa Kỳ đã tham dự và điều khiển một chiến tranh “bí mật” ở vương quốc đó hơn bảy năm. Ở Thượng Lào, nhân viên CIA Mỹ điều khiển một đạo quân hơn 20 ngàn người của tướng Vang Pao, giao chiến thường xuyên với hai sư đoàn quân CSVN và Pathet Lào. Ở Hạ Lào, Lực lượng Ðặc biệt VNCH và Hoa Kỳ, từ năm 1964, đã xâm nhập vào nhiều địa điểm từ Ðèo Mụ Già xuống đến bình nguyên Bolovens để đánh dấu tọa độ cho những chiến dịch dội bom chiến lược bằng B-52. Gọi là “chiến tranh bí mật” vì Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ không thông báo cho Quốc hội biết về những ngân khoản quân sự chi tiêu ở Lào; và CSVN — dù bị dội bom thường xuyên — cũng không lên tiếng, vì họ luôn luôn tuyên bố họ không có quân hay căn cứ trên đất Lào. Chính phủ Hoàng gia Lào cũng không có chọn lựa nào khác hơn là yên lặng: họ hy vọng vào Hoa Kỳ để đẩy lui sự xâm lấn của CSVN. Trong sự phủ nhận của tất cả can sự, cuộc chiến tiếp tục xảy ra trong vòng “bí mật.” [7]

Ðường xâm nhập Hồ Chí Minh. Lực lượng CSVN/ Việt cộng ở miền Nam không thể tiếp tục chiến đấu hơn một năm nếu không nhận được tiếp liệu từ bên ngoài. Ðiều này đúng hơn khi các đơn vị cộng sản mở những cuộc tấn công với cấp số tiểu đoàn, trung đoàn trở lên. [8] Ðể nuôi sống ý định xâm chiếm miền Nam bằng võ lực, tháng 5-1959 CSVN thiết lập Ðoàn 559 để chuyển người và vũ khí vào nam. Nhiệm vụ của Ðoàn 559 là xây dựng và duy trì một hệ thống đường xâm nhập trên đất Lào, chạy dài từ đèo Mụ Già (rồi sau đó từ những con đèo băng qua biên giới ở Quảng Bình và Vĩnh Linh) xuống đến những tỉnh ở miền đông bắc Cam Bốt (khoảng Katum, Bù Gia Mập, phía VNCH). Từ năm 1959 đến năm 1965, phương tiện vận tải trên đường xâm nhập Hồ Chi Minh (ĐHCM) là sức người, xe đạp thồ, voi, hay trâu bò. Nhưng vào mùa khô năm 1965 (mùa khô ở Hạ Lào bắt đầu vào tháng 10 và kéo dài đến cuối tháng 4), CSVN quyết định cơ giới hoá phương tiện vận chuyển — dùng xe để chuyên chở. Dùng xe thì phải làm đường, và hệ thống đường vận tải của CSVN bung ra mọi nơi trên đất Lào. Năm 1971, khi QLVNCH soạn thảo kế hoạch đánh vào những căn cứ hậu cần trên con đường chiến lược đó, ĐHCM không còn là một “con đường” nữa, mà là một hệ thống đường ngang, đường dọc, chằng chịt trên đất Lào. Tài liệu của CSVN nói hệ thống ĐHCM có tất cả là 17.000 cây số. Ðó là con số phóng đại. Nhưng sự ước lượng đến từ VNCH và Hoa Kỳ thì tổng cộng hệ thống ĐHCM có không dưới 10.000 cây số. Một chi tiết mà hai phía đều công nhận: hệ thống ĐHCM gồm có sáu đường dọc (chạy từ bắc xuống nam); 21 đường ngang (từ tây sang đông, dẫn từ lãnh thổ Lào vào biên giới VNCH); và một số đường vòng không kể hết (đường vòng là đường dùng để trốn bom, hay chạy vòng ngang một trục lộ chánh đang bị bom phá hủy). Năm 1970 cũng là năm CSVN hoàn tất hệ thống ống dẫn dầu từ Quảng Bình qua đèo Mụ Già, vòng qua phía tây Tchepone và xuôi nam, đi vào thung lũng A Shau. Hệ thống ống dầu không lớn (ống có đường kính 20 phân), nhưng đủ để cung cấp nhiên liệu cho hơn 60 tiểu đoàn xe vận tải và hai trung đoàn xe tăng đóng ở Trung và Hạ Lào. [9]

Với cây số của hệ thống đường gia tăng, nhân lực và quân lực cần có để bảo vệ ĐHCM phải gia tăng. Ðoàn 559 lúc thành hình có cấp số tiểu đoàn với không hơn 400 người, năm 1970 được nâng lên cấp số binh đoàn với 63.000 quân, và 12.000 dân công tạp dịch. Từ một trạm giao liên dẫn đường duy nhất ở Khe Gió, bây giờ ĐHCM có 67 trạm giao liên đường bộ và đường thủy, và 30 binh trạm. Mỗi binh trạm có cấp số tương đương một trung đoàn. Năm 1969 ĐHCM chuyển vận được 78.000 tấn; và năm 1970, 74.000 tấn quân nhu dụng. Hệ thống phòng không bảo vệ những trục đường quan trọng gia tăng theo tỉ lệ số lượng hàng chuyển vận. Năm 1965 lực lượng phòng không trên ĐHCM có khoảng 190 súng phòng không; năm 1970 hoả lực phòng không bảo vệ đường có hơn 970 súng phòng không. Khẩu độ súng phòng không gồm đủ loại: từ loại 12.7 ly để chống trực thăng, đến 85 ly có tầm sát hại trên cao độ của vận tải cơ võ trang AC-130. Ðôi khi đại bác phòng không 100 ly được sử dụng để hăm dọa những phi tuần B-52. Nhiều hơn hết là loại 23 ly và 37 ly điều khiển bằng ra-đa, một vũ khí đáng sợ cho tất cả những phi cơ hoạt động dưới 10.000 bộ (bốn cây số). [10]

Hoa Kỳ và VNCH không phải không biết về sự bành trướng của ĐHCM. Từ năm 1964 VNCH và Hoa Kỳ đã đưa ra nhiều kế hoạch để ngăn chặn hay giới hạn lưu lượng xâm nhập trên ĐHCM. Nhưng Hạ Lào, với địa hình hiểm trở, rừng già che phủ mặt đất, và núi đồi “trùng trùng điệp điệp,” mọi kế hoạch đánh phá, ngăn chặn đã không đem lại kết quả như mong muốn. Trước khi những toán Lực lượng Ðặc biệt MACV-SOG hỗn hơïp Việt-Mỹ xâm nhập vào Hạ Lào để viễn thám, Lực lượng Đặc biệt VNCH đã đưa năm toán vào Hạ Lào trong hai tháng 4 và tháng 6 năm 1964 để thám thính. Tuy nhiên trong số 30 nhân viên của năm toán, chỉ có năm người trở về được, hai mươi lăm người kia chết hoặc mất tích. [11] Những Lực lượng Đặc biệt trở về báo cáo cho biết cán binh cộng sản dầy đặc ở Hạ Lào. Về phía Hoa Kỳ, ngoài những toán Lực lượng Đặc biệt được đưa vào thám thính những mục tiêu trên ĐHCM thường xuyên, từ năm 1968 Bộ Tư lệnh MACV đã thực hiện những chiến dịch dội bom chiến lược hàng ngày trên những của khẩu xâm nhập vào Hạ Lào. Chiến dịch dội bom Commando Hunt chỉ giới hạn vào bốn trọng điểm xâm nhập vào Hạ Lào: Ðèo Mụ Già, Bản Karai, Bản Ravin, và một cửa khẩu trên đầu của giao điểm Sông Rào Quảng và biên giới Lào (hướng tây bắc Khe Sanh). [12] Một ngày ba lần, mỗi trọng điểm bị ba phi tuần của chín pháo đài bay B-52 đội bom. Một B-52 thông thường chở 105 quả bom 500 cân. Khoảng giữa của những phi vụ B-52 là 125-150 phi vụ chiến thuật rải bom CBU nổ chậm, để ngăn chặn dân công sửa những đoạn đường vừa bị phá. Không quân Hoa Kỳ thực hiện những chiến dịch dội bom như vậy từ tháng 11-1968 cho đến tuần lễ cuối cùng của tháng 1-1971, trước khi QLVNCH chuẩn bị băng qua biên giới. [13]

Sự khai sinh của hành quân Lam Sơn 719

Henry A. Kissinger trong hồi ký White House Years, nói về nguồn gốc đưa đến kế hoạch HQLS719 như sau, “Sự thành công thì có nhiều người cha. Nhưng thất bại là đứa con không người nhận.” [14] Ý ông Cố vấn An ninh Quốc gia muốn nói là, không ai trong chính phủ Nixon nhận là cha đẻ của kế hoạch HQLS719. Thật sự chúng ta không có nhiều tài liệu khẳng định ai tác giả “vẽ” ra kế hoạch. Nhưng nhiều tài liệu cho thấy Kissinger có tham dự và đốc thúc việc thực hiện HQLS719. Tài liệu rõ ràng nhất đến từ hồi ký của H. R. Haldeman, tham mưu trưởng Toà Bạch ốc, khi Kissinger nói với Haldeman là ông muốn nói chuyện với tổng trưởng quốc phòng Melvin Lair và đô đốc Thomas Moorer (Tham mưu Trưởng Ban Tham mưu Liên quân), trước mặt Tổng thống Richard Nixon, về kế hoạch HQLS719. Lý do là Kissinger muốn thấy Nixon trực tiếp ra lệnh cho hai người thi hành kế hoạch. Một tài liệu khác đến từ đại tướng Alexander Haig, phụ tá quân sự cho Kissinger lúc đương thời. Trong hồi ký Inner Circles, tướng Haig nói Ban Tham mưu Liên quân soạn kế hoạch HQLS719 qua sự thúc giục của Nixon và Kissinger. [15] Có thể là như vậy. Nhưng tài liệu cho thấy chính tướng Haig là người đích thân đem huấn lệnh của tổng Thống Nixon qua Sài Gòn ngày 13 tháng 12-1970, để thông báo cho MACV về kế hoạch đánh qua biên giới. [16]

Ai là tác giả kế hoạch HQLS719 có thể không quan trọng. Quan trọng hơn là vì lý do nào kế hoạch này được đề nghị với thẩm quyền. Sách vở và tài liệu cho thấy lý do chính trị và quân sự thúc đẩy sự thành hình của HQLS719 — lý do chính trị và quân sự của năm 1970-71.

Lý do chính trị. Kissinger — và cũng có thể Nixon — có một thúc đẩy chính trị khi đề nghị hay thúc đẩy kế hoạch HQLS719. Kissinger không nói ra điều này trong hồi ký. Dĩ nhiên ông sẽ không bao giờ nói ra những ẩn ý chính trị của một kế hoạch. Công chúng chỉ biết được điều này nhờ vào hồ sơ được giải mật sau này. Năm 2002 Trung tâm Lưu trữ Văn khố Quốc gia cho giải mật một văn thư của Kissinger liên hệ đến HQLS719. Trong văn thư, Kissinger giải thích sự cần thiết của HQLS719 đối với bối cảnh chính trị Mỹ cho hai năm 1971-72. Năm 1972 là năm bầu cử Tổng thống Hoa Kỳ. Nixon cần được sự ủng hộ tuyệt để của cử tri. Ðể đền bù lại lời Nixon đã hứa với cử tri trong nhiệm kỳ thứ nhất, là ông sẽ kết thúc cuộc chiến ở Việt Nam trong trong vòng một năm sau khi nhiệm chức, lần ứng cử nhiệm kỳ hai, Nixon phải cho cử tri thấy cuộc chiến Việt Nam khả quan, nếu không nói là đồng minh đang thắng thế. Một cuộc tấn công qua Lào vào năm 1971 sẽ gây nhiều thiệt hại cho CSVN. Và nếu CSVN khôi phục lại sức lực để đe dọa tình hình an ninh cho VNCH, thì ít nhất họ cũng cần đến hơn một năm — nghĩa là sau khi cuộc bầu cử 1972 hoàn tất. [17] Kissinger hy vọng như vậy. Hơn nữa, từ tháng 8-1969 Hoa Kỳ đã lần lược rút quân theo kế hoạch — một tiến triển làm vừa lòng giới phản chiến — nếu cuộc tấn công qua Lào có kết quả như dự đoán, thì chương trình rút quân và chương trình Việt Nam hóa sẽ thành công theo ý muốn. Ðó là mưu lược chính trị của Kissinger trong tương quan của HQLS719 và mùa bầu cử 1972.

Lý do quân sự. Lý do quân sự cho kế hoạch HQLS719 thì quá rõ; không ai phủ nhận được — ngay cả phía CSVN. Sự thành công mỹ mãn trong lần đánh qua Cam Bốt. Quân lực CSVN gần như kiệt quệ. Nghị quyết 9 và những đợt rút quân về Bắc vì không còn đủ lương thực để nuôi quân... Tất cả những yếu tố đó thúc đẩy các tư lệnh Việt - Mỹ đi đến quyết định: đây là thời điểm tốt nhất để tấn công các căn cứ hậu cần của CSVN ở Lào; cắt đứt đường tiếp tế vào nam của cộng sản. Một yếu tố khác làm cho giới lãnh đạo Việt - Mỹ phải quyết định nhanh hơn: Cuối năm 1970 quân lực Mỹ còn 334 ngàn quân ở Việt Nam, với đầy đủ tiếp liệu và hoả lực. Nếu đánh là phải đánh ngay, nếu chần chờ, hoả lực yểm trợ của Hoa Kỳ sẽ mất dần theo đà rút quân trong những năm kế tiếp.

Với thực tế quân sự khả quan — để phục vụ cho một tương lai chính trị — Toà Bạch ốc ra lệnh cho Ban Tham mưu Liên Quân sơ thảo dự án cho HQLS719. Ðầu tháng 11-1970, Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương yêu cầu Bộ Tư lệnh MACV phát hoạ kế hoạch hành quân qua Hạ Lào. Mục tiêu chính là Tchepone; và tất cả các căn cứ hậu cần nằm từ hươùng đông nam Tchepone xuống tận A Shau.

Khái niệm “Hành quân” của HQLS719

HQLS719 có cấp số quân đoàn, với một lực lượng tương đương ba sư đoàn tham dự. Cuộc hành quân có bốn giai đoạn. Giai đoạn I, có tên Dewey Canyon II, do các lực lượng Hoa Kỳ phụ trách. [18] Mục tiêu của giai đoạn I là giải toả quốc lộ 9 từ Ðông Hà đến biên giới Việt-Lào ở Lao Bảo; tái chiến căn cứ Khe Sanh để thiết lập Bộ Chỉ huy Tiền phương của HQLS719; và, tái thiết phi trường Khe Sanh làm điểm chuyển vận chánh. Giai Ðoạn II. Các lực lượng VNCH, dùng quốc lộ 9 làm hướng tiến quân, đánh chiếm Bản Ðông, một vị trí quan trọng nằm trên đường 9, cách biên giới chừng 12 cây số. Giai đoạn III: Sau khi củng cố lực lượng, quân Nhảy dù sẽ được trực thăng vận từ Bản Ðông đổ bộ vào chiếm Tchepone, khoảng 42 cây số từ Lao Bảo. Trong lúc đó lực lượng thiết kỵ vẫn tiến đánh dọc theo đường 9 để bắt tay với cánh quân ở Tchepone sau. Giai đoạn IV: Sau khi chiếm Tchepone và phá hủy căn cứ hậu cần ở đó, các đơn vị VNCH sẽ quay về hướng đông nam, tiếp tục lục soát và phá hủy căn cứ tiếp vận ở Aloui (Aluoi) Ta Bat, A Shau, trên đường trở về biên giới. Cuộc hành quân sẽ kéo dài ba tháng, khởi diễn sau Tết Tân Hợi (tháng 27 tháng 1-1971 là ngày Tết) cho đến đầu tháng 5, khi mùa mưa bắt đầu ở Hạ Lào.

Khái niệm “hành quân” được Bộ Tổng Tham mưu và MACV chấp nhận và truyền đạt xuống Quân đoàn I (QÐI) và Bộ Tư lệnh Quân đoàn XXIV (QÐXXIV). [19] Tuy nhiên trong thời gian QÐI và QÐXXIV bổ túc thêm những chi tiết phụ cho cuộc hành quân, Hoa Thịnh Ðốn vẫn chưa quyết định chắc chắn là HQLS719 sẽ được thực hiện hay không.

Những khiếm khuyết của hành quân Lam Sơn 719

Ở phần trên chúng ta thấy hoàn cảnh đưa đến quyết định thực hiện HQLS719 — hai ít ra là soạn thảo sự khả thi của kế hoạch. Phần này chúng ta nói về những khuyết điểm của HQLS719.

Khuyết điểm trong lúc soạn thảo

a. Sau khi Toà Bạch ốc và BTMLQHK đồng ý kế hoạch HQLS719, ngày 6 tháng 11-1970 Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương yêu cầu MACV soạn thảo kế hoạch. [20] Hôm sau, 7 tháng 11, Đại sứ Bunker và Đại tướng Abrams hội kiến 80 phút với Tổng thống Thiệu, trình bài những kế hoạch tấn công qua biên giới. Tổng thống Thiệu đồng ý trên căn bản ba kế hoạch đánh qua biên giới, và cho phép thực hiện ngay những kế hoạch có thể thực hiện được. [21] Ngày 11 tháng 1-1971 Tổng trưởng Quốc phòng Melvin Lair và TMT BTMLQHK, đô đốc Thomas Moorer, đến Sài Gòn và có hội kiến với Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu về kế hoạch HQLS719. Một lần nữa Tổng thống Thiệu tái xác định sự ủng hộ của VNCH. Vấn đề còn lại là sự ủng hộ của Vương quốc Lào. Nhưng cho đến ngày 21 tháng 1, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ và VNCH vẫn chưa biết Hoàng thân Souvana Phouma của Lào có cho phép QLVNCH đem quân vào Hạ Lào hay không. Thêm vào đó, chính Tổng trưởng Ngoại giao William Rogers cũng không đồng ý kế hoạch HQLS719. Roger phản đối vì ông nghĩ đánh vào Tchepone là một kế hoạch nguy hiểm: Thành công thì không sao, nhưng nếu thất bại thì kế hoạch Việt Nam hoá của Hoa Kỳ sẽ mang tiếng xấu. Ngày 22 tháng 1, Souvana Phouma chỉ đồng ý cho QLVNCH đánh vào khu vực ở phía cực bắc vùng ba biên giới (Lào-Cam Bốt-Việt Nam, cực tây của Khâm Ðức). [22]

b. Với sự thuyết phục của Tổng Thống Nixon, Ngoại trưởng Rogers lưỡng lự đồng ý. Sau đó Rogers ra lệnh cho Đại sứ McMurtrie Godley ở Vạn Tượng cố vấn cho Souvana Phouma lên tiếng về HQLS719. Phouma lên tiếng phản đối trước dư luận — sự phản đối có tính toán bên trong. Ðầu tiên ông lên tiếng phản đối bất cứ sự xâm phạm nào của VNCH vào lãnh thổ Lào. Rồi sau đó ông chỉ trích sự hiện diện của CSVN trên đất Lào, nói tất cả là lỗi của họ. Và cuối cùng, ông hy vọng QLVNCH sẽ... rời khỏi lãnh thổ Lào trong một, hai tuần (ý nói là hành quân càng ngắn càng tốt).

c. Nhưng khi thấy nhiều xung đột và bất đồng nhất từ cấp trên thẩm quyền dân sự (Bộ Quốc phòng vs Bộ Ngoại giao; Lair vs Rogers; Bộ Ngoại giao vs Nixon...) ngày 27 tháng 1 Đại tướng Abrams gởi điện văn cho TTMTLQ Thomas Moorer, nói ông sẽ hủy bỏ kế hoạch HQLS719, và sẽ chính thức loan báo với các bộ tư lệnh liên hệ vào ngày 29. Nhưng ngay ngày 27, Nixon họp với ban tham mưu và ra lệnh cho thực thực hiện Giai đoạn I của HQLS719 (QLHK tái chiếm Khe Sanh). Giai đoạn II sẽ quyết định sau, nhưng lệnh thực hiện hay hủy bỏ phải đến từ Hoa Thịnh Ðốn. [23] Ngày 29 tháng 1, Nixon ra lệnh MACV phối hợp và yểm trợ cuộc hành quân Toàn Thắng 1/71 đánh trở lại Cam Bốt với khoảng 19 ngàn quân VNCH tham dự. Nhưng quyết định tối hậu về HQLS719 vẫn chưa được thẩm quyền cao nhất quyết định. Sau cùng, ngày 4 tháng 2-1971, được lệnh của Nixon, đô đốc Moorer cho lệnh tiến hành Giai đoạn II. Và HQLS719 khởi hành.

Qua ba chi tiết a, b, và c trên, chúng ta thấy kế hoạch hành quân được đề nghị và soạn thảo trong sự e dè, thiếu nghị quyết, vì quá phụ thuộc vào quyết định chính trị. Kế hoạch có thể bị bại lộ từ sự thiếu quyết định này. Sự qua lại Sài Gòn của các thẩm quyền Mỹ không thể không làm cho giới lãnh đạo CSVN nghi ngờ. Càng nghi ngờ hơn khi ngày 15 tháng 12-1970, hoàng thân Phouma đã tuyên bố ở Vạn Tượng, là Lào không muốn VNCH có mặt ở Lào! Không cần suy luận nhiều, CSVN biết phải có chuyện gì Phouma mới tuyên bố như vậy. Sự thương lượng qua lại giữa Mỹ và Phouma có thể bị lộ, vì theo các nhân viên ngoại giao Mỹ, hệ thống bảo mật của chính phủ Hoàng gia Lào có nhiều lỗ thủng hơn cái... rổ!

Thêm vào lời tuyên bố của Phouma, ba sự kiện khác xảy ra trước đó càng làm cho CSVN khẳng định về ý định của VNCH và Hoa Kỳ — hay ít ra làm cho họ chuẩn bị phòng thủ. Sau cuộc tấn công ở Cam Bốt, tháng 9-1970 Lực lượng Đặc biệt Hoa Kỳ đổ bộ thẳng vào Ban Bak (Bản Bạc) phá hủy binh trạm 37. Hai tháng sau, 11-1970, Hoa Kỳ nhảy thẳng ra Sơn Tây, moät vị trí cách Hà Nội không hơn 50 cây số. Rồi ngày 15 tháng 1-1971 VNCH dùng 19 ngàn quân đánh trở lại Cam Bốt. Với những cuộc tấn công dồn dập như vậy, CSVN phải nghĩ Hạ Lào sẽ là mục tiêu sắp tới. [24]

Nhiều lời đồn cho rằng CSVN đã biết được kế hoạch HQLS719 từ những điệp viên của họ có mặt ở Sài Gòn. [25] Nhưng với địa hình của vùng hành quân và trục lộ tiến quân, địch không thể nào không suy đoán được kế hoạch của chúng ta. Kế hoạch bị bại lộ không phải do sự tài tình của đối phương mà do sự trục trặc, thiếu phối hợp giữa VNCH và Hoa Kỳ. Sự thiếu phối hợp này vô tình “thông báo” kế hoạch HQLS719 cho đối phương. Trong khi Hoa Thịnh Ðốn, BTTM VNCH và MACV đồng ý sẽ giữ kín tin tức ít nhất cho đến ngày 4 tháng 2-1971 (trong nguyên thủy, ngày 4 tháng 2 là ngày chánh thức khởi đầu sự hành quân) trước khi tuyên bố ra công cộng. Nhưng ngày 25 tháng 1, nhiều sĩ quan cấp nhỏ ở Quân đoàn I đã được thông báo ngày giờ hành và kế hoạch hành quân rồi. Một trường hợp khác, ngày 22 tháng 1, chính Trung Tướng James Sutherland, tư lệnh QÐXXIV, chứng kiến trung tướng Hoàng Xuân Lãm bàn về kế hoạch HQLS719 với chuẩn tướng Phạm Văn Phú và một số sĩ quan khác, trong khi họ đứng chờ máy bay ngoài phòng khách ở phi trường. [26] Một trường hợp khác: Ngày 15 tháng 1, sau khi Bộ Tổng Tham mưu hoàn thảo kế hoạch HQLS719, chuẩn tướng Trần Ðình Thọ và Thiếu Tướng Donald Cowles của MACV bay ra Ðà Nẵng để thuyết trình cho tướng Lãm và Sutherland khái niệm hành quân. Ðể bảo mật nên số sĩ quan được mời tham dự rất giới hạn. Sau buổi thuyết trình, khi ra khỏi phòng chuẩn tướng Thọ gặp đại tá Cao Khắc Nhật, đại tá Nhật hỏi, “Tại sao không cho tôi tham dự buổi thuyết trình? Tôi đã hoàn tất soạn thảo kế hoạch hành quân [ở cấp quân đoàn]?” [27]

Quân lực Việt Nam Cộng hòa

Quân lực Việt Nam Cộng hòa

Hành quân Lam Sơn 719: Nguồn gốc và khuyết điểm

Nguyễn Kỳ Phong

Ngày 31 tháng 1, nhật báo The New York Times đang tải một nguồn tin — trong đó có đoạn trích từ nhật báo London Observer — về kế hoạch HQLS719. Hai ngày sau, hãng thông tấn CBS News loan tải nguồn tin. Tin tức từ đài CSB khá chính xác về mục tiêu hành quân và quân số tham dự. Tin còn loan báo luôn ngày Tổng thống Nixon cho phép tiến hành kế hoạch hành quân. Như vậy, không những CSVN biết được kế hoạch, mà cả thế giới cũng biết luôn. [28]

Qua sự thiếu phối hợp trên, chúng ta nghĩ đối phương có thể suy luận ra kế hoạch HQLS719. Tin tức tình báo của VNCH và MACV xác định điều này, khi MACV “đọc” được những điện tín qua lại giữa các binh trạm và bộ tư lệnh Binh đoàn 559. Những điện tín cho ta biết CSVN đã thành lập một bộ tư lệnh có tên là 70B cho mặt trận “Ðường 9 - Nam Lào.” Quân lệnh chỉ thị các binh trạm 9, 27, 33, 34 chuẩn bị phòng thủ ngăn chặn cuộc tiến quân của QLVNCH. [29] Cũng từ những điện tín đó, MACV biết rõ số quân CSVN dự bị cho cuộc hành quân.

Khuyết điểm trong cuộc hành quân

Với tất cả những tài liệu về HQLS719 được giải mật trong những năm vừa qua, sau khi tham khảo, đa số các tác gia về quân sự đồng ý về một số khiếm khuyết quan trọng của HQLS719: (a) QLVNCH không đủ quân để đè bẹp áp lực của quân CSVN trong vùng hành quân; (b) hoả lực và không vận của QÐXXIV không đủ để yểm trợ cho lực lượng hành quân; (c) hệ thống quân giai của Hoa Kỳ và VNCH không được xác định rõ ràng và thi hành triệt để trong suốt cuộc hành quân, làm cho những quân lệnh không được thực hiện; và, (d) tin tức tình báo sai lạc đưa đến nhiều trở ngại cho vấn đề tiếp liệu, hoả lực dự trù, và sự thay đổi bất thần, giữa đường, của kế hoạch.

a. Tháng 3-1967 ở hội nghị thượng đỉnh Guam, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và Đại tướng Cao Văn Viên đề nghị với Tổng thống Lyndon Johnson một kế hoạch đánh qua Hạ Lào để cắt đường tiếp tế CSVN vào nam. Tổng thống Johnson không trả lời ngay lúc đó, nhưng cuối năm 1967, Đại tướng William Westmoreland ra lệnh cho ban tham mưu MACV soạn thảo một kế hoạch hành quân tương tự như HQLS719. Theo lời một đại tá phụ trách soạn thaûo Hành Quân OPLAN EL Paso, khái niệm hành quân cần ba sư đoàn Việt-Mỹ, tương đương 60 ngàn quân: một sư đoàn không kỵ và một sư đoàn bộ binh (Mỹ); và một sư đoàn Nhảy dù VNCH. Lực lượng tiếp liệu và yểm trợ cho đạo quân đó phải có khả năng yểm trợ cho cấp quân đoàn. Khái niệm hành quân đặt nặng vấn đề tiếp liệu bằng không vận, vì nhu cầu của lực lượng tại mặt trận cần ít nhất là 2.975 tấn quân nhu dụng một ngày. [30]

Kissinger trong hồi ký có nói khi ông hỏi Đại tướng Westmoreland về sự khả thi của HQLS719, Westmoreland nói cuộc hành quân cần ít nhất là bốn sư đoàn cộng để tấn công vào Tchepone. Và phải tấn công chớp nhoáng bằng trực thăng vận chứ không thể đánh đường bộ chậm chạp như đang thực hiện. [31] Qua những chi tiết trên, chúng ta thấy ba sư đoàn VNCH quá ít để áp đảo lực lượng đối phương trong những ngày đầu — khi quân CSVN chưa huy động tất cả lực lượng trừ bị của họ. Ở cao điểm của HQLS719, VNCH có 30.746 quân ở chiến trường Lào, gồm 16 tiểu đoàn tác chiến và 12 tiểu đoàn pháo binh. Trong khi đó, tại vùng hành quân, BTL 70B của CSVB có hơn 60 ngàn quân. [32]

Như tất cả học viên quân sự đều thuộc nằm lòng, khi tấn công thì quân tấn công cần tỉ số ba trên một nếu muốn thành công. Trong HQLS719 quân tấn công chỉ bằng phân nữa quân phòng thủ, mà lại tấn công vào một địa hình do đối phương hoàn toàn làm chuû.

b. Yểm trợ và tiếp liệu cho cuộc hành quân đến từ QÐXXIV Hoa Kỳ. Quân đoàn XXIV được thành lập từ tháng 8-1968, và thay thế Quân đoàn III TQLC ở Vùng I VNCH. Sau Giai đoạn I của cuộc hành quân (bảo vệ đường 9 từ Ðông Hà đến Lao Bảo và tái chiếm phi trường Khe Sanh), vai trò của QÐXXIV được đặt nặng vào tiếp tế không vận và yểm trợ bằng không pháo (aerial artillery/ pháo binh của trực thăng võ trang) — và sự sống còn của các lực lượng ở chiến trường tùy thuộc vào sự hữu hiệu của hai khả năng này. Theo những tài liệu đến từ MACV, QÐXXXIV không đủ khả năng để yểm trợ cho cuộc hành quân, về hoả lực cũng như về không vận.

Tài liệu giải mật từ MACV cho thấy QÐXXIV có gần 600 trực thăng để phục vụ cho HQLS719. [33] Nhưng khả năng hoạt động của số trực thăng bị giới hạn vì hoả lực, thời tiết và bảo trì — những yếu tố mà hai tuần vào cuộc hành quân, MACV và QÐXXIV mới nhận ra. Chỉ nói về phương diện tiếp tế lương thực thôi, đạo quân 30 ngàn người ở chiến trường cần 150 phi vụ trực thăng một ngày để thỏa mãn — và đây chỉ là nhu cầu tối thiểu với một ký thực phẩm và bốn lít nước cho mỗi người. [34] Qua tài liệu, chúng ta thấy những căn cứ hoả lực rất cần nước. Tác giả đại úy pháo binh Trương Duy Hy nói về những cảnh giành giựt nước tiếp tế trên đồi 30: thiếu nước uống, thiếu nước để lau chùi nòng súng pháo binh.. Tiểu đoàn 2 Nhảy dù trước khi di tản khỏi căn cứ hoả lực 30, đánh một điện tín lên trời, yêu cầu phi cơ liên lạc thông báo với tư lệnh sư đoàn Nhảy dù về tình trạng tiếp tế nguy ngập của tiểu đoàn. “Bị bao vây đã 10 ngày, có 200 thương vong, không có tiếp tế... không nước và lương thực hai ngày qua. Cần tiếp tế lập tức khi trời sáng.” [35]

Ðến ngày 24 tháng 2 BTL MACV bùng nổ vì vấn đề thiếu trực thăng: Ðại tướng Abrams điên lên vì sự quản trị — hay thiếu quản trị — nhu cầu không vận của BTL QÐXXIV. Sĩ quan dưới quyền của tướng Sutherland báo cáo về MACV là mặc dù tình hình trực thăng nguy ngập, nhưng trung tướng Sutherland vẫn không có một phản ứng nào thích hợp để giải quyết. Trong một trang giải mật của tác phẩm The Abrams Tapes, chúng ta đọc được những tiếng chửi thề của tư lệnh và tư lệnh phó MACV về sự quản trị và điều khiển nhu cầu cung ứng trực thăng cho mặt trận Hạ Lào. Chưa hả giận, tướng Abrams bay ra BTL QÐ XXIV để thị sát và... chửi thề tiếp. [36] Cũng biết thêm, Không quân Hoa Kỳ đã làm tất cả những gì họ có thể làm được để chuyển quân nhu dụng ra Ðông Hà và Khe Sanh. Từ Ðông Hà hàng có thể di chuyển bằng quân xa về Khe Sanh. Nhưng từ từ Khe Sanh ra vùng giao chiến thì chỉ trông chờ vào trực thăng. Sau ba ngày hành quân, ngày 11 tháng 2, Đại tướng Lucius Clay, tư lệnh Không lực 7 than thở trong buổi họp ở MACV: “Ngoài những phi vụ yểm trợ cho cuộc hành quân này [HQLS719] tôi bay 12.000 phi vụ yểm trợ một tháng. Tôi bay 21.000 phi vụ chuyên chở. Tôi bay 850-900 phi vụ thám thính. Ý tôi muốn nói là vấn đề bảo trì... chúng ta chỉ có thể bay đến một giới hạn nào đó thôi.” Tướng Abrams cũng không thể phủ nhận là khả năng không vận và không lực của quân đội Hoa Kỳ ở Việt Nam trong thời điểm đó đã đến mức tối đa. Chính tướng Abrams cũng thốt lên ý nghĩ đó vào ngày 27 tháng 2 — hai ngày sau khi đồi 31 của Lữ đoàn 3 Nhảy dù thất thủ: “Chúng ta đang ngập đầu với gánh nặng, ở Cam Bốt cũng như ở Lào.” Ở mặt trận Cam Bốt, ngày 23 vừa qua tướng Trí vừa tử nạn trực thăng. Và đến ngày 27, MACV báo cáo quân lực VNCH có 21.000 quân tại mặt trận Cam Bốt. Ðó là lý do tại sao Hoa Kỳ không còn khả năng không vận.

Kế hoạch HQLS719 cũng tính sai về khả năng yểm trợ hoả lực, không pháo từ trực thăng ở những bãi đổ quân. Trực thăng võ trang AH-1G hay những chiến UH-1C biến cải thành võ trang, không đủ hoả lực để đè bẹp phòng không của đối phương trên đường bay vào bãi đáp, hay hộ tống những phi vụ chở quân. Một lần nữa, MACV và QÐXXIV không ước lượng được sự cuồng nộ của phòng không đối phương — càng lúc càng gia tăng theo thời gian của trận chiến. Khi MACV yêu cầu không quân Hoa Kỳ yểm trợ và tham dự vào kế hoạch dọn bãi đáp thì số trực thăng thiệt hại đã lên khá cao. Trước khi đó, thông thường BTL QÐXXIV chỉ yêu cầu 10-12 phi vụ dội bom chiến thuật từ không quân, rồi pháo binh và không pháo trực thăng đàn áp hỏa lực phòng không để cho trực thăng đáp xuống. Nhưng sau 20 ngày hành quân, 31 trực thăng bị hủy hoại và 230 chiếc khác bị trúng đạn, phi công trực thăng Lục quân Hoa Kỳ e ngại hơn. Ngày 3 tháng 3, khi đổ quân vào bãi đáp LoLo ở đông nam Tchepone, trực thăng gặp kháng cự mạnh của phòng không. Cuộc đổ quân bắt đầu từ 10 giờ sáng, bị nhiều gián đoạn vì hoả lực của đối phương, đến 6:30 chiều mới hoàn tất. Kết quả: Liên đoàn 101 Không vận Trực thăng có 20 bị trúng đạn không cất cánh được; bảy bị hủy diệt hoàn toàn; và 42 bị trúng đạn hư hại. Sự khinh thường hoả lực phòng không của đối phương gây nhiều trở ngại và thiệt hại cho lực lượng tấn công. Cũng vì khinh thường đối phương nên QÐXXIV không “mời” Không lực 7 góp ý kiến vào những kế hoạch dọn bãi, nhất là những bãi đáp để tiến vào Tchepone vào đầu tháng 3. Sau lần thiệt hại ở bãi đáp LoLo, QÐXXIV chấp nhận phương cách dọn bãi đổ quân của Không lực 7. [37]

c. Hệ thống chỉ huy và điều khiển của Hoa Kỳ và VNCH trong cuộc hành quân. Vấn đề chỉ huy và điều khiển phía VNCH đã được báo chí, sách vở bàn luận nhiều. Ở đây người viết chỉ lặp lại một số chi tiết đáng nhớ. Ðặt hai trung tướng Lê Nguyên Khang và Dư Quốc Ðống dưới quyền thống thuộc của trung tướng Hoàng Xuân Lãm gây nhiều trở ngại cho vấn đề chỉ huy và điều khiển. Sự bất hợp tác — và bất phục — tùng dĩ nhiên xảy ra. Tương tự, sự bất hợp tác hiện hữu khi Lữ đoàn 1 Nhảy dù (đại tá Lê Quang Lưỡng) nằm dưới quyền thống thuộc của Chiến đoàn 1 Ðặc nhiệm (đại tá Nguyễn Trọng Luật). Sự giậm chân tại chỗ năm ngày ở Bản Ðông của quân Dù và Thiết kỵ; cuộc giải cứu thất bại đồi 31, đêm 25 tháng 2... là những bằng chứng về sự bất hợp tác này. Tài liệu cho thấy sự bất đồng xảy ra khi tướng Khang đập bàn lúc nói chuyện với tướng Lãm. Tướng Lãm bay về Dinh Ðộc Lập để than phiền với Tổng thống Thiệu và Đại tướng Viên về tướng Ðống. [38] Cũng chính vì sự bất hợp tác này, trung tướng Lãm đã thay đổi kế hoạch giữa lúc trận chiến đang xảy ra: Sư đoàn 1 Bộ binh thay Sư đoàn Nhảy dù nhảy vào Tchepone; TQLC từ Khe Sanh sẽ đổ bộ vào những cao điểm phía nam đường 9, thay thế bộ binh của Sư đoàn 1. Sự thay thế này đã gây nhiều thiệt hại cho Sư đoàn TQLC ở hai cao điểm Hotel và Delta.

Hệ thống chỉ huy và điều khiển của Hoa Kỳ trong HQLS719, tuy không có vấn đề bất tuân hệ thống quân giai, nhưng họ lại quên chỉ định một quân giai để chỉ huy và điều khiển: Ở bộ tư lệnh tiền phương ở Khe Sanh, cho đến ngày 24, Hoa Kỳ không có một sĩ quan cấp tướng nào để chỉ huy và điều khiển các ông đại tá của các quân chủng khác nhau (sĩ quan liên lạc/ phối hợp của Không duân, Hải quân, Thuỷ quân Lục chiến...). Ngày 25 tướng Abrams mới cho một trung tướng ra bộ chỉ huy tiền phương để duyệt xét sự hợp tác và phối hợp giữa Không quân và Lục luân. Thêm vào sự khó khăn là các sĩ quan cố vấn cho các sư đoàn VNCH làm việc trực tiếp cho MACV, nên họ không phải trả lời cho BTL QÐXXIV, và họ điều khiển chiến thuật, cung cấp tiếp liệu, yêu cầu yểm trợ theo ý họ. Ðôi khi MACV phải giải quyết những trở ngại này từ Sài Gòn. [39]

Một sự thiếu hiệu quả khác của hệ thống chỉ huy và điều khiển là nằm xa nhau, khó “chạy qua, chạy lại” để hỗ trợ. BTL QÐXXIV nẵm ở Ðà Nẵng; QÐ I nằm ở Huế và Quảng Trị; và bộ chỉ huy tiền phương thì nằm ở Khe Sanh. Hệ thống chỉ huy như vậy không bảo đảm được sự liên tục của quân lệnh.

d. Tin tức tình báo sai lạc trong cuộc hành quân. Khi tấn công vào một địa hình do địch làm chủ hoàn toàn, ở một mặt trận xa hậu cứ, và đường tiếp tế thì giới hạn bởi chính địa hình đó, tin tức tình báo về lực lượng của đối phương rất quan trọng. Mọi sự sai lệch về tình báo sẽ là một yếu tố quan trọng đưa đến thắng thua trong trận chiến. Nhưng rất tiếc, tin tức tình báo mà ban tham mưu VNCH và Hoa Kỳ dựa vào để soạn thảo kế hoạch HQLS719 thì hoàn toàn sai lạc. Sai lạc về hoả lực, quân số, và địa hình của mặt trận gây nhiều khốn đốn cho lực lượng tấn công.

Hoả lực phòng không. Ước tính tình báo sơ khởi do Không lực 7 cung cấp, cho biết Binh đoàn 559 và các đơn vị trực thuộc Binh đoàn 70B có khoảng 225-275 súng phòng không. Dựa vào tin tức này, QÐXXIV và Liên đoàn 101 Không vận Trực thăng nghĩ họ có thể “giải quyết được.” Càng nghĩ họ sẽ giải quyết và áp chế được số lượng phòng không địch ở Hạ Lào, nên chẵng những Lục quân không xin yểm trợ tối đa của Không quân, mà họ còn cho ước tính của Không quân quá cao. Nhưng ngược lại, ước tính của Không quân quá thấp: Khi lâm trận thì mới biết CSVN có từ 525-575 súng phòng không ở mặt trận. [40] Nhiều nhất là loại 12.7 ly. Loại súng này không lớn, không bắn được cao, nhưng đủ để triệt hạ những trực thăng đổ bãi. Và vũ khí đó đã làm thay đổi trận chiến rất nhiều. Ước lượng về hoả lực địa pháo cũng hoàn toàn sai: Không lực và pháo binh Ðồng Minh không phản pháo hay áp đảo được tất những ụ pháo của đối phương. Ðầu tháng 3, trung tướng Sutherland gọi điện thoại về nói với tư lệnh phó MACV Fred Weyand, “Ðịch có mặt mọi nơi. Súng cối và pháo binh gây nhiều phiền phức...” Tiểu đoàn 2 Nhảy dù di tản khỏi đồi 30 không phải vì áp lực bộ binh của địch mà là vì pháo. Hơn 1.000 quả pháo bắn vào đồi 30 trong hai ngày trước khi tiểu đoàn di tản, hủy diệt tất cả pháo binh của hai pháo đội đóng trên đồi. [41]

Sai lạc về địa hình. Không ảnh do Không lực 7 cung cấp và ước lượng cho biết đường 9 từ Lao Bảo về Bản Ðông lưu thông được. Xăng và nước uống sẽ được chuyển vận bằng quân xa theo lộ trình đó để tiếp tế cho mặt trận. Nhưng không ảnh hoàn toàn sai: Ðường 9 bị không quân dội bom từ năm 1966, cắt ra nhiều đoạn. Trên đường, đôi khi có nhiều lỗ thủng bề ngang 6-7 thước, sâu 2-3 thước. [42] Khi những chuyến xa “tanker” loại 5.000 gallons gặp những khúc đường đó, họ không băng qua được được. Xăng và nước chỉ đến được Khe Sanh, từ đó ra chiến trường phải là trực thăng. Di chuyển bằng đường bộ không được gaây một gánh nặng cho không vận. Nước cho người đã là một gánh nặng; nặng hơn là nhiên liệu cho các lực lượng cơ giới. Lực lượng cơ hữu của Lữ đoàn 1 Kỵ binh có tổng cộng 62 xe tăng và 162 thiết giáp. Chưa kể những quân xa đi theo. [43] Cơ giới mà không có xăng thì cũng như không. Trên đoạn đường rút quân về biên giới, một số quân xa, thiết giáp, xe tăng, bị bỏ lại chỉ vì hết xăng. Khi BTL QÐXXIV biết được chuyển vận sẽ hoàn toàn phụ thuộc vào không vận, thì khả năng không vận của quân đoàn đã quá mức tối đa, không còn xây chuyển được.

Một sai lạc về địa hình rất căn bản xảy ra trong HQLS719 nói lên sự thất bại của nguyên kế hoạch: lính đi qua Hạ Lào không được trang bị y phục cho thời tiết lạnh. Trên những cao độ ở Hạ Lào, ban đêm lính rất khổ sở vì lạnh. Rừng núi ở Hạ Lào vào tháng 2, trên đồi cao mà không trang bị quân phục ấm cho lính thì đó là một ước tính thiếu sót không hiểu được. Ðiều đó nói lên tất cả sự sơ sót của kế hoạch HQLS719.

 

Quân lực Việt Nam Cộng hòa Chiến dịch Lam Sơn 719 Bách khoa toàn thư Wikipedia Chiến dịch Lam Sơn 719 / Chiến dịch đường 9 - Nam Lào Một phần của Chiến tranh Việt Nam Chiến dịch Lam Sơn 719 hay Cuộc Hành quân Hạ Lào (cách gọi của Việt Nam Cộng hòa) hay Chiến dịch đường 9 - Nam Lào (cách gọi của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) là một chiến dịch trong Chiến tranh Việt Nam, do Quân lực Việt Nam Cộng hòa (QLVNCH) thực hiện với sự yểm trợ của không quân và pháo binh Mỹ. Mục tiêu của chiến dịch là phá vỡ hệ thống hậu cần của Quân đội Nhân dân Việt Nam (QĐNDVN) tại Lào và cắt đứt Đường mòn Hồ Chí Minh tại thị trấn Tchepone nằm cách biên giới Việt-Lào 42 km về phía Tây. Chiến dịch này còn là một thử nghiệm về khả năng Quân lực Việt Nam Cộng hòa có thể tự chiến đấu trong tình huống Mỹ tiếp tục rút quân ra khỏi chiến trường miền Nam Việt Nam, một thử nghiệm về chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh và năng lực hoạt động độc lập một cách hiệu quả của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Do những sai lầm cố hữu trong hệ thống chỉ huy của Việt Nam Cộng hòa, nhu cầu bảo mật làm hạn chế việc lập kế hoạch kĩ càng, và sự bất lực của các chỉ huy quân sự và chính trị của Mỹ và Việt Nam Cộng hòa khi đối mặt với thực tế chiến sự, và do sự thi hành kém, Chiến dịch Lam Sơn 719 đã sụp đổ khi đối mặt với sự phản kháng kiên quyết và khéo léo của đối phương. Chiến dịch này đã là một thảm họa đối với Quân lực Việt Nam Cộng hòa, làm tiêu tan những đơn vị thiện chiến nhất của quân đội này, và phá tan sự tự tin đã được xây dựng trong ba năm trước đó. Việt Nam hóa chiến tranh, chiến lược mà nhiều quan chức dân sự và quân sự Mỹ coi là phương cách tốt nhất để cứu Việt Nam Cộng hòa và để Mỹ hoàn thành việc rút quân, đã thể hiện sự thất bại. Chiến dịch này còn đánh dấu bước phát triển mới của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Chiến sự bùng nổ ở Hạ Lào không giống như bất cứ trận chiến nào trước đó trong Chiến tranh Việt Nam. Đây là lần đầu tiên QĐNDVN bỏ chiến thuật cũ và tiến hành phản công theo kiểu chiến tranh chính quy truyền thống, lần đầu tiên QĐNDVN mở các đợt tấn công lớn bằng bộ binh với yểm trợ của thiết giáp và pháo binh hạng nặng để đè bẹp các vị trí của QLVNCH tại các cánh sườn của tiền đội chính. Sự hiệp đồng tác chiến của hỏa lực phòng không đã làm cho yểm trợ không quân chiến thuật và tăng viện bằng không quân của Mỹ trở nên khó khăn và chịu nhiều thiệt hại. Quân đội Nhân dân Việt Nam dự đoán sẵn một nỗ lực quân sự tiếp theo tất yếu của sự Việt Nam hóa chiến tranh và bày sẵn thế trận tiêu hao đối thủ. Trong thời gian đầu của chiến dịch Quân đội Nhân dân Việt Nam cố gắng tìm cách giấu lực lượng để địch tiến về phía tây, chỉ đến khi không còn giữ được bí mật, mới tiến hành trận đánh Đại phá bản Đông, cho thấy Quân lực Việt Nam Cộng hòa thất bại "từ trong trứng". Hoặc một cách lập luận khác, Việt Nam Cộng hòa đã biết chắc thất bại nhưng vẫn tiến hành chiến dịch đẫm máu vì những lý do chính trị, như lời của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu: "chỉ cần đến Xê-pôn rồi rút về".[cần dẫn nguồn] Hoàn cảnh Hệ thống đường Trường Sơn Trong thời kỳ 1959-1970, đường Trường Sơn đã trở thành tuyến hậu cần quan trọng của Quân đội Nhân dân Việt Nam và Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam cho nỗ lực của họ nhằm thực hiện các hoạt động quân sự để lật đổ chính phủ Việt Nam Cộng hòa do Mỹ hỗ trợ và thống nhất đất nước. Chạy từ phía tây Bắc Trung Bộ qua vùng Đông Nam Lào và đi vào một số vùng phía Tây của miền Nam, hệ thống đường Trường Sơn đã là mục tiêu của các nỗ lực đánh phá ngăn chặn liên tục của Mỹ suốt từ năm 1966. Tuy nhiên, hỗ trợ các chiến dịch không kích, các hoạt động ngầm mới chỉ được thực hiện ở quy mô nhỏ trong địa phận của Lào nhằm ngăn chặn dòng người và hàng trên đường Trường Sơn.[5] Hành quân bằng Thiết giáp M113 Kể từ năm 1966, trên 630.000 người, 100.000 tấn lương thực, 400.000 vũ khí, và 50.000 tấn đạn dược đã di chuyển qua mê cung của những con đường đất, đường rải đá, đường mòn, và các hệ thống vận chuyển đường sông dọc ngang vùng Đông Nam Lào, nối với một hệ thống hậu cần tương tự tại nước láng giềng Campuchia - Đường mòn Sihanouk.[6] Tuy nhiên, từ sau khi Norodom Sihanouk bị lật đổ năm 1971, chính quyền Lon Nol thân Mỹ đã không cho lực lượng quân Giải phóng tiếp tục sử dụng cảng Sihanoukville để nhận hàng. Về mặt chiến thuật, đây là một đòn nặng đối với nỗ lực của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, do 70% hàng quân sự cho miền cực nam đã được chuyển đến qua cảng này.[7] Cú đòn tiếp theo vào hệ thống hậu cần đặt tại Campuchia đã được thực hiện vào mùa xuân và mùa hè năm 1970, khi quân Mỹ và Việt Nam Cộng hòa vượt qua biên giới và tấn công các khu căn cứ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam trong chiến dịch Campuchia. Hoàn thành việc phá hủy các "thánh địa Cộng sản" tại Campuchia, các sở chỉ huy Mỹ tại Sài Gòn quyết định rằng thời gian đang thuận lợi cho một chiến dịch tương tự tại Lào. Các tướng lĩnh Mỹ tin rằng, nếu thực hiện một chiến dịch như vậy, tốt nhất là làm thật nhanh, trong khi các phương tiện chiến tranh của Mỹ vẫn còn sẵn có tại miền Nam Việt Nam. Một chiến dịch như vậy sẽ gây ra sự thiếu thốn đạn dược vũ khí cho Giải phóng quân sau 12 đến 18 tháng, trong khi quân đội Mỹ rút dần ra khỏi miền Nam Việt Nam, và nhờ đó trì hoãn một cuộc tấn công lớn của Quân Giải phóng vào các tỉnh phía Bắc Việt Nam Cộng hòa trong vòng 1 năm, thậm chí có thể 2 năm.[8] Binh sĩ Việt Nam Cộng hòa thuộc Tiểu đoàn 1 Cơ giới tại Mặt trận Đường 9 Nam Lào Khi đó đang có các dấu hiện ngày càng tăng của hoạt động hậu cần tại miền Đông Nam Lào, hoạt động này báo hiệu một cuộc tấn công lớn của quân đội nhân dân Việt Nam.[9] Các cuộc tấn công này thường xảy ra vào gần cuối mùa khô tại Lào (từ tháng 10 đến tháng 3), mùa các lực lượng hậu cần của Quân đội Nhân dân Việt Nam hoạt động mạnh nhất. Một báo cáo tình báo Mỹ ướng tính khoảng 90% lượng quân nhu của Quân đội Nhân dân Việt Nam chuyển dọc đường Trường Sơn đang được điều vào 3 tỉnh cực Bắc của Việt Nam Cộng hòa, hiện tượng này cho thấy sự chuẩn bị cho một cuộc tấn công lớn.[10] Đây là một tín hiệu cảnh báo cho cả Washington và chỉ huy Mỹ tại Việt Nam, hối thúc về sự cần thiết của một cuộc tấn công ngăn chặn để làm trật bánh các mục tiêu của QĐNDVN trong tương lai.[11] Lực lượng tham chiến Lực lượng của Việt Nam Cộng hòa và Mỹ trong cuộc hành quân này gồm có: Quân lực Việt Nam Cộng hòa: 3 sư đoàn: Sư đoàn Dù (gồm 3 lữ đoàn 1,2,3), Sư đoàn Thuỷ quân Lục chiến, Sư đoàn 1 Bộ binh 3 lữ đoàn: Liên đoàn 1 Biệt động quân, trung đoàn 4 và trung đoàn 5 - sư đoàn bộ binh số 2 4 trung đoàn và 2 chi đoàn thiết giáp: trung đoàn 17, 11, 7, 4 (trang bị xe tăng M-41) 13 tiểu đoàn pháo binh Quân Mỹ: 12 tiểu đoàn bộ binh: 5 tiểu đoàn thuộc sư đoàn dù 101, 4 tiểu đoàn lữ 1 sư đoàn 5 bộ binh cơ giới, 3 tiểu đoàn thuộc sư đoàn Americal 8 tiểu đoàn pháo binh (cỡ pháo từ 155 đến 203 mm) 1200 máy bay: 800 trực thăng, 300 máy bay phản lực, 50 máy bay vận tải cỡ lớn và 50 máy bay chiến lược B-52 Quân đội Hoàng gia Lào 2 binh đoàn cơ động GM30 và GM33 Quân đội Nhân dân Việt Nam, với chỉ huy là Bộ tư lệnh Mặt trận Đường 9 - Nam Lào (mật danh là "Bộ tư lệnh 702"). Các sư đoàn bộ binh: 2, 304, 308, 320 và 324 Ba tiểu đoàn tăng, thiết giáp: 297, 397, 198, với 88 xe tăng T-34, T-54, PT-76 Một số tiểu đoàn đặc công Ba trung đoàn pháo binh cơ giới: 368, 38, 45 Trung đoàn pháo mang vác 84 Ba trung đoàn pháo phòng không: 230, 241, 591 Ba trung đoàn công binh: 219, 83, 7 Bảo vệ hậu phương chiến lược, trực tiếp của chiến dịch là Sư đoàn phòng không 367 gồm 3 trung đoàn pháo phòng không 282, 284, 224 và hai trung đoàn tên lửa 238, 237 Các lực lượng tại chỗ của B5, B4 và Đoàn 559 Chiến lược và kế hoạch Mục tiêu của QLVNCH là xâm chiếm phần lãnh thổ Lào quanh đường 9, kéo dài từ biên giới tới thị trấn Xê-pôn; tiêu diệt lực lượng đối phương đóng trong vùng; phá hủy tất cả các kho xăng dầu và hậu cần; kiểm soát mọi sự thâm nhập dọc theo đường mòn Hồ Chí Minh từ Bắc vào Nam. Đối với QLVNCH, chiến thuật cơ bản của Lam Sơn 719 là đánh-và-rút. Trên kế hoạch, điều này là khả thi do yểm trợ về không quân và khả năng di chuyển bằng máy bay. Để gây thiệt hại tối đa về người cho QĐNDVN, QLVNCH sẽ tiến công và thiết lập các cứ điểm mạnh, kéo đối phương vào các vùng trống, tạo điều kiện cho hỏa lực mạnh của không quân và pháo binh Mỹ phát huy hiệu quả. Các nhà chiến lược quân sự Mỹ cho rằng, với “ưu thế tuyệt đối, 600 - 1.000 máy bay lên thẳng sẽ cho phép 20.000 quân Sài Gòn làm được những điều mà phải cần đến 8 hoặc 10 vạn quân”. Ngày 7 tháng 1 năm 1971, MACV nhận được thẩm quyền lập kế hoạch chi tiết cho cuộc tấn công vào các khu căn cứ 604 và 611 của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Tướng James W. Sutherland, Jr., được giao nhiệm vụ lập kế hoạch để MACV thông qua. Theo kế hoạch, chiến dịch sẽ bao gồm 4 pha. Trong pha đầu tiên, quân Mỹ sẽ chiếm vùng sát biên và thực hiện các hoạt động nghi binh. Tiếp theo, đội hình dù phối hợp tăng thiết giáp của VNCH sẽ tấn công dọc theo đường 9 về phía thị trấn Xê-pôn của Lào - căn cứ hậu cần 604 của QĐNDVN. Đội hình tiến công sẽ được bảo vệ bởi các đơn vị dù và biệt động quân ở sườn phía bắc và Sư đoàn 1 Bộ binh ở sườn phía Nam. Trong pha thứ 3, các hoạt động tìm diệt tại Xê-pôn sẽ được thực hiện. Cuối cùng, các lực lượng của VNCH sẽ rút ra dọc theo đường 9 hoặc qua căn cứ 611 và ra khỏi địa phận Lào qua thung lũng A Sầu.[12] Những người lập kế hoạch đã hy vọng rằng quân đội của VNCH có thể trụ lại Lào cho đến khi mùa mưa đến vào đầu tháng 5.[13] Phần chiến dịch do Mỹ thực hiện được đặt tên Dewey Canyon II, lấy tên theo chiến dịch Dewey Canyon do thủy quân lục chiến Mỹ thực hiện tại vùng Tây Bắc Việt Nam Cộng hòa năm 1969, với hy vọng rằng sự trùng tên này sẽ làm Hà Nội nhầm lẫn về mục tiêu chính của cuộc tấn công. Phần của Quân lực Việt Nam Cộng hòa được đặt tên Lam Son 719, con số 719 được ghép từ năm 1971 và Đường 9 - trục chính của cuộc tấn công. Ngày 29 tháng 1, Tổng thống Mỹ Nixon phê chuẩn lần cuối đối với chiến dịch. Ngày hôm sau, chiến dịch Dewey Canyon II bắt đầu. Việt Nam Cộng hòa sắp bước vào chiến dịch lớn nhất, phức tạp nhất, và quan trọng nhất của họ trong cuộc chiến tranh. Diễn biến Đầu tháng 2 năm 1971, 17.000 (sau tăng lên 21.000) quân VNCH vượt biên giới với Lào đi theo đường 9 và hướng về trung tâm hậu cần của QĐNDVN tại Xê-pôn. Chiến dịch Lam Sơn 719, cuộc tấn công vào hệ thống đường mòn Hồ Chí Minh và cuộc thử nghiệm lớn chính sách Việt Nam hóa chiến tranh của Mỹ, đã bắt đầu.[14] Theo luật, quân đội Mỹ (ngoại trừ các đơn vị không quân, pháo binh, và trực thăng) không được phép tham gia cuộc xâm lấn.[15] QLVNCH đã tấn công, tiến đến các vị trí đã định trong kế hoạch. Nhưng không chốt giữ được lâu để thực hiện mục đích ngăn cản sự tiếp tế. QĐNDVN đã dự đoán trước được hướng tiến công nên đã chủ động thực hiện phòng ngự - phản công, gây thiệt hại lớn và ngăn chặn được ý đồ chia cắt của QLVNCH. Đợt 1 (31/1 - 7/2) Đây là giai đoạn bên tấn công chuẩn bị hậu cần, chuyển quân. Sở chỉ huy chiến dịch (Quân đoàn 1 QLVNCH) chuyển từ Đà Nẵng tới Đông Hà, chuẩn bị hậu cần để tiếp nhận lực lượng tăng cường từ Sài Gòn. QLVNCH thực hiện các hoạt động nghi binh như thể sắp vượt giới tuyến 17 đánh ra Bắc. Cuối cùng, sở chỉ huy chuyển về đặt tại Khe Sanh. Đầu tháng 2 năm 1971, trên hướng phối hợp đông đường 9 gồm các huyện Gio Linh, Cam Lộ, Hướng Hóa do Mặt trận đường 9 - bắc Quảng Trị chỉ huy, từ ngày 1 đến 5 tháng 2 năm 1971, Tiểu đoàn 2 (Trung đoàn 27), Tiểu đoàn 3 (Trung đoàn 84 pháo binh) của QĐNDVN tiến công chế áp quân QLVNCH ở khu vực Tân Lâm, Sa Mưu; Tiểu đoàn 3 độc lập tập kích quân QLVNCH ở tây Đầu Mầu, Tiểu đoàn 15 đánh cắt giao thông từ Bồng Kho đi Rào Quán. Trong hai ngày 6 và 7 tháng 2 năm 1971, Tiểu đoàn 3 (Trung đoàn 84 pháo binh) bắn 200 viên đạn pháo các loại vào căn cứ Đông Hà và Sở chỉ huy tiền phương Sư Đoàn 1 Bộ Binh QLVNCH ở điểm cao 241... Trên hướng tây đường 9 bao gồm các khu vực Đồng Hến (Atsaphangthong), Pha Lan (Thaphalanxay), Mường Phìn (Phine) tỉnh Savannakhet của nước Lào, Trung đoàn 48 (Sư đoàn 320) phối hợp với Quân Giải phóng Nhân dân Lào, trong hai ngày (25 và 26 tháng 1 năm 1971) đánh thiệt hại nặng Tiểu đoàn đặc nhiệm (thuộc Binh đoàn GM 33) ở Pha Lan. Ngày 6 tháng 2, Bộ Quốc phòng VNDCCH ra quyết định thành lập Bộ tư lệnh Mặt trận Đường 9 - Nam Lào với mật danh "bộ tư lệnh 702". Một lực lượng lớn gồm bộ binh, pháo binh và thiết giáp, phòng không tên lửa được đặt dưới sự chỉ huy của Bộ tư lệnh mặt trận sẵn sàng đợi lệnh. Tấn công Tối 7-2, Tổng thống Mỹ Richard Nixon nhận được bản báo cáo đầu tiên: cuộc tiến quân vượt biên giới Việt – Lào đã tiến hành “theo đúng kế hoạch”, mà không gặp bất kỳ sự cản trở nào. 8 giờ ngày 8 tháng 2 năm 1971, Tống thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố mở cuộc tiến công nhằm cắt đứt đường mòn Hồ Chí Minh. Chính quyền Sài Gòn tuyên bố: "Sẽ đón các nhà báo quốc tế tại Xê-pôn"...[cần dẫn nguồn]. Đầu năm 1971, tình báo Mỹ ước tính lực lượng QĐNDVN tại Căn cứ 604 là 22.000 người, gồm 7.000 lính chiến đấu, 10.000 người trong các đơn vị hậu cần và hỗ trợ, và 5.000 quân Pathet Lào, tất cả nằm dưới sự chỉ huy của Mặt trận 702 mới được thành lập.[16] Đã có nhiều quan điểm khác nhau về phản ứng có thể của QĐNDVN đối với cuộc tấn công. Tướng Abrams tin rằng, không như ở Campuchia, tại các căn cứ ở Lào, QĐNDVN sẽ trụ lại và chiến đấu. Ngay từ ngày 11 tháng 12, ông đã báo cáo với Đô đốc McCain (1911-1981) rằng các đội hình bộ binh, thiết giáp, và pháo mạnh đã có mặt ở Nam Lào... các tuyến phòng không ghê gớm đã được triển khai... địa hình rừng núi là một trở ngoại bổ sung. Các bãi trống tự nhiên cho trực thăng hạ cánh hiếm và khả năng lớn là đã được phòng thủ chặt chẽ. Các khối lớn các đơn vị chiến đấu đang ở trong vùng lân cận Xê-pôn, và QĐNDVN chắc sẽ bảo vệ các căn cứ và các trung tâm hậu cần của mình trước bất kì hoạt động quân sự nào của Mỹ và đồng minh.[17] Tuy nhiên, tình báo MACV đã tin rằng cuộc xâm nhập sẽ chỉ bị chống cự nhẹ. Các cuộc không kích chiến thuật và pháo sẽ làm mất tác dụng của số lượng vũ khí phòng không trong khu vực được ước tính là từ 170 đến 200 khẩu, và mối đe dọa từ các đơn vị thiết giáp QĐNDVN được coi là tối thiểu. Khả năng tăng viện của QĐNDVN được xác định là từ hai sư đoàn đóng phía bắc Khu Phi Quân sự sẽ đến sau 14 ngày, và MACV hy vọng rằng các hoạt động nghi binh sẽ giữ chân các đơn vị này trong thời gian xảy ra chiến dịch.[18] Tuy nhiên, khi viện binh của QĐNDVN đến nơi, họ lại không đến từ phía bắc như MACV dự đoán, mà lại từ Căn cứ 611 và thung lũng A Sầu ở phía nam, nơi 8 trung đoàn, tất cả đều có các đợn vị pháo binh hữu cơ, đang ở trong tầm 2 tuần hành quân. Ngay từ ngày 26 tháng 1, QĐNDVN đã đang chờ đợi một cuộc tấn công. [19] Sau các đợt bắn phá dữ dội của hàng chục trận địa pháo gồm hàng trăm khẩu từ 105 mm tới 175 mm bố trí dọc biên giới Việt - Lào trên một chính diện 30 km; và các phi vụ ném bom B-52 dọc hai bên Đường 9 - Nam Lào, cuộc hành quân Lam Sơn - 719 bắt đầu vào ngày 8 tháng 2, khi cánh quân chính của Việt Nam Cộng hòa, lực lượng hiệp đồng thiết giáp/bộ binh gồm 4000 quân thuộc Lữ đoàn 3 Thiết giáp và các Tiểu đoàn 1 và 8 Nhảy dù, tiến về phía Bản Đông theo đường 9 không gặp phản kháng. Để bảo vệ sườn phía bắc, Tiểu đoàn 39 Biệt động quân được không vận tới bãi đáp Ranger North (biệt động quân bắc), còn Tiểu đoàn 21 Biệt động quân tới Ranger South (biệt động quân nam). Các tiền đồn này có nhiệm vụ làm rào cản đối với bất kỳ cuộc tiến quân nào của Quân đội Nhân dân Việt Nam từ phía Bắc vào khu vực xâm nhập của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Cùng thời gian đó, Tiểu đoàn 2 Nhảy dù chiếm cứ điểm 30 (Fire Support Base 30), còn sở chỉ huy Lữ 3 Dù cùng Tiểu đoàn 3 Nhảy dù tới cứ điểm 31. Đồng thời, các đơn vị của Sư đoàn 1 Bộ binh đánh chiếm các bãi đáp Blue, Don, White, và Brown cùng các cứ điểm Hotel, Delta, và Delta 1, che chắn sườn phía nam của đội hình chính.[20] Nhiệm vụ của đội hình chính là tiến theo thung lũng sông Xê-pôn, một dải đất tương đối bằng phẳng với cây bụi xen lẫn rừng thưa, phía Bắc và phía Nam là núi cao. Gần như ngay lập tức, các trực thăng tiếp vận chịu hỏa lực từ các đỉnh cao, nơi các tay súng Quân đội Nhân dân Việt Nam có thể dùng súng máy và súng cối bắn xuống máy bay. Thêm vào đó, đường 9 xấu đến mức chỉ có xe bánh xích và xe jeep có thể đi được về phía Tây. Điều này đặt gánh nặng tăng viện và hậu cần cho máy bay. Các đơn vị trực thăng trở thành hình thức hậu cần sống còn, một vai trò trở nên ngày càng nguy hiểm do trần mây thấp và hỏa lực phòng không không dứt.[21] M41 Walker Bulldog, xe tăng chiến đấu chính của QLVNCH Ngày 10 tháng 2, lực lượng thiết giáp QLVNCH kiểm soát được Đường 9 cho đến Bản Đông, nằm sâu 20km trong địa phận Lào và ở khoảng giữa đường tới Xê-pôn. Đến 11 tháng 2, Bản Đông trở thành căn cứ và là trung tâm chỉ huy chiến dịch. Theo kế hoạch, cần tấn công mạnh để chiếm giữ mục tiêu chính, nhưng Quân lực Việt Nam Cộng hòa lại dừng lại ở Bản Đông để chờ lệnh tiến của tướng Lãm.[22] Hai ngày sau, tướng Abrams và Sutherland bay đến sở chỉ huy tiền phương của Hoàng Xuân Lãm tại Đông Hà để đẩy nhanh lịch trình. Nhưng tại cuộc họp, thay vào đó, các tướng đã quyết định đẩy các tiền đồn của Sư đoàn 1 Bộ binh ở phía Nam đường 9 về phía Tây để bảo vệ sườn cho hướng tiến quân theo kế hoạch. Việc chuyển quân này tốn thêm 5 ngày nữa.[23] Trong khi đó, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã tổ chức vây hãm Bản Đông từ nhiều phía, không để cho cánh quân chính của Việt Nam Cộng hòa theo đường 9 tiến lên Xê-pôn. Tại Washington, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Melvin Laird phủ nhận khẳng định của các nhà báo rằng cuộc tiến công của VNCH đã đình trệ. Tại một cuộc họp báo, Laird tuyên bố rằng A Loui (Bản Đông) chỉ là một điểm tạm dừng để các chỉ huy QLVNCH có cơ hội "quan sát và đánh giá các di chuyển của đối phương.... Chiến dịch đang tiến triển theo kế hoạch."[24] Về phía QĐNDVN, sáng 9 tháng 2, Trung đoàn 24 (Sư đoàn 304) tăng cường cho Sư đoàn 308 liên tiếp đánh bại 5 đợt tiến công của chiến đoàn đặc nhiệm dù tại chốt 351 cầu Cha Kỵ, diệt gần hai đại đội. Cùng ngày, tại đường 16, Tiểu đoàn 6, Trung đoàn 88 (Sư đoàn 308) đánh thiệt hại nặng Đại đội 2 (Tiểu đoàn 21 Biệt động quân) bảo vệ an toàn trận địa pháo Làng Sen. Đêm 11 tháng 2, Tiểu đoàn 4 (Trung đoàn 88) và Tiểu đoàn 7 (Trung đoàn 64) tập kích Tiểu đoàn 2 dù ở bắc Sê Num. Từ ngày 11 đến 13 tháng 2, Trung đoàn 64 (Sư đoàn 320) liên tiếp đánh thắng hai trận ở khu vực điểm cao 456 và đồi Không tên, tiêu diệt 3 đại đội của Tiểu đoàn 3 và Tiểu đoàn 6 (Lữ đoàn dù 3) chốt giữ căn cứ 31 (điểm cao 543) bắc Bản Đông 7 km. Cùng thời gian này, trên hướng nam và tây Bản Đông, các mũi tiến công của QLVNCH đều bị chặn đánh quyết liệt. http://www.vietlandnews.net/forum/showthread.php?t=16980&page=5
Quân lực Việt Nam Cộng hòa Quân lực Việt Nam Cộng hòa HÀNH QUÂN LAM SƠN 719 HẠ LÀO Và ĐẠI ĐỘI 5/TĐ2/TQLC. MX Phạm Văn Tiền Dai Uy Pham Van TienLời tác giả: Từ lâu đã có quá nhiều bài viết về cuộc hành quân Lam-sơn 719 tại Hạ Lào. Có nhiều người quá lạc quan cho rằng QLVNCH đã chiến thắng lớn trong cuộc hành quân nầy vì quân ta đã phá hủy được phần lớn căn cứ hậu cần địch dọc theo hệ-thống đuờng mòn Hồ chí minh tại cứ điểm Tchépone. Lại có vài bài viết khác lại nói rằng đây là cuộc hành quân thảm bại nhất, hao tốn nhiều xương máu của anh em binh sĩ mà chẳng có kết quả cụ thể nào. Bao nhiêu quân trang quân dụng cùng vũ khí đủ loại kể cả pháo binh và thiết giáp đem vào khi xung trận, lại phải hủy diệt tại chổ hay biếu không cho địch. Điều tai hại nhất là làm suy sụp nghiêm trọng đến tinh thần chiến đấu của nguời lính QLVNCH, vì chẳng có đơn vị nào còn nguyên vẹn trong cuộc lui binh rầm rộ, hỗn độn, hấp tấp vô cùng mất trật tự chưa từng xảy ra trong quân sử của bất cứ quân đội thiện chiến nào. Hình ảnh oai hùng của người lính lâm trận cùng đủ loại yểm trợ và các vũ khí vô cùng tối tân đã bị phai nhạt khi người lính trở về trong thất vọng, mất mát, thiểu não như vừa thoát về từ địa ngục trần gian. Với bản thân mình là Đại úy Đại đội trưởng của một đơn vị tổng trừ bị tham dự trong cuộc hành quân nầy. Tôi xin ghi lại một cách trung thực những gì tôi biết, tôi nghe, tôi thấy trong khả năng hiểu biết của mình .Tôi muốn nói lên sự thực, một sự thật vô cùng khổ đau mà người lính QLVNCH phải đương đầu với tất cả sức lực còn lại của mình để tồn tại trong cái chết là điều chắc chắn. Vừa mãn khóa 4/70 Đại đội trưởng tại trường Bộ Binh Thủ Đức, hết phép cũng là lúc tiểu đoàn đang nghỉ dưỡng quân sau cuôc hành quân dài 3 tháng tại Đức Dục - Quảng Nam. Đây là lần đầu tiên trong nhiều năm đơn vị được ăn Tết tại hậu cứ. Lệnh chuẩn bị hành quân được ban ra trong lúc đa số các anh em binh sĩ còn trể phép chưa về trình diện đầy đủ. Tiểu đoàn cấm trại 100% và lệnh cho các ĐĐT bằng mọi cách, gom con cái của mình lại càng nhanh càng tốt. Một số lớn binh sĩ ở trại gia binh được gọi vào để trang bị vũ khí đạn dượt sẵn sàng cho môt cuộc hành quân xa. Đại đội tôi cố gắng lắm cũng đử gần được 100 anh em, số còn lại sẽ được chuyển ra trong chuyến liên lạc gần nhất. Đoàn GMC của đại đội vận tải sư đoàn mang chúng tôi từ hậu cứ Tam Hà - Thủ Đức đến phi trường quân sự Biên Hòa, để từ đây không vận bằng C130 ra Huế. Đến phi trường Phú Bài vào lúc nhá nhem tối, vì là đơn vị di chuyển sau cùng của tiểu đoàn nên chúng tôi được lệnh đóng quân qua đêm tại công viên bên bờ sông Hương, trước mặt cửa Thượng Tứ; để rồi sáng sớm ngày hôm sau sẽ vào vùng hành quân. Xe qua An Lỗ, cầu Phổ Trạch quận Phong Điền nơi vết tích của cuộc phản kích tuyệt vời thuộc đơn vị tôi vào sáng ngày 29/6/1966. Vị tiểu đoàn trưỡng đã anh dũng hy sinh cùng hàng chục người khác. Rồi Mỹ Chánh, Quảng Trị, Ái Tử, Đông Hà...một thị trấn nhỏ bé nằm cực Bắc đất nước nơi tuyến đầu lửa đạn, vẫn còn đây với bao kỷ niệm ôm ấp từ những ngày mới ra trường, thành phố của đủ mọi sắc lính vẫn đi và về trong hối hả vội vàng. Qua Cam Lộ bắt đầu rẽ trái về quốc lộ 9 đường đi Savanakhet Hạ Lào để từ đây vào thẳng vùng đồi núi Khe Sanh, nơi đặt trung tâm hành quân của Quân Đoàn I cho cuộc hành quân sắp tới. Khe Sanh là một cái tên khá quen thuộc, một vùng đất mầu mỡ nhiều đồn điền càfé thời Pháp thuộc nay đã biến thành một cứ điểm chiến lược vô cùng quan trọng trong cuộc chiến tranh nầy, nơi nổi danh với nhiều trận đánh lẫy lừng đẫm máu nhất giữa quân CSBV và lực lượng đồng minh Hoa Kỳ vào cuối năm 1967 và những tháng đầu năm 1968. Lực lượng địch đã vây hãm Khe Sanh trong vòng 77 ngày với ý đồ biến nơi đây thành mồ chôn quân Mỹ của một Điện Biên Phủ thứ 2, nhưng rồi đã bị thảm bại tan tác dưới các cơn mưa bom đạn của một quân lực hùng mạnh nhất thế giới, trung bình mỗi ngày hơn 45 phi vụ B52 và 300 phi vụ oanh tạc khác yểm trợ chiến thuật. Số bom đạn được ném xuống ở đây còn nhiều hơn tổng số mà quân đồng minh đã xử dụng trong trận đại chiến thế giới lần 2 khi đánh bại Đức Quốc Xã. Lần nầy để yểm trợ cho cuộc hành quân sang lãnh thổ bạn, quân lực Hoa Kỳ chịu trách nhiệm khai quang các trục lộ và bảo đảm an ninh từ 2 tháng trước từ Đông Hà đến tận miền biên giới Việt Lào, đường xá và một số cầu cống được tu sửa lại thật hoàn chỉnh, phi trường quân sự Khe Sanh bị hoang phế nhiều năm nay cũng được tu bổ lại sẵn sàng cho các vận tải cơ đáp xuống tiếp tế tản thương theo nhu cầu chiến trường; một số bệnh xá dã chiến cũng được thiết lập để có thể chữa trị thương binh tại chổ. Đây là cuộc hành quân được chuẩn bị một cách khẩn trương, nhộn nhịp đại quy mô gồm nhiều đơn vị tham dự mà chẳng có yếu tố bảo mật chút nào. Xe cộ lui tới thường xuyên, tiếng rú của động cơ máy bay cùng các xe ủi đất vang rền lên xuống ngày đêm, có lẽ từ ngày khởi sự chiến tranh ở miền Nam cho đến lúc nầy chưa có cuộc hành quân nào được chuẩn bị ồn ào như vậy. Các lực lượng tham chiến gồm các trung đoàn của sư đoàn 1BB, các lữ đoàn của sư đoàn Nhảy Dù và TQLC, liên đoàn I/BĐQ và lữ đoàn I/Thiết Giáp. Ngoài các thành phần tham dự kể trên còn có các cố vấn Hoa Kỳ bên cạnh các đơn vị, các sĩ quan đại diện Không lực Mỹ về không trợ và không vận. Kể từ năm 1970, sau kế hoạch Việt Nam hoá chiến tranh, quân đội Hoa Kỳ bắt đầu giảm bớt quân số tại chiến trường Việt Nam, không còn những cuộc hành quân của lực lượng tác chiến mà chỉ xử dụng không quân yểm trợ phối hợp cùng không quân của QLVNCH. Hệ thống cố vấn Mỹ tại các đơn vị tác chiến cũng từ đó giảm bớt và đặc biệt họ không còn phải tháp tùng trên bộ cùng chúng ta trong các cuộc hành quân ngoại biên. Sư Đoàn TQLC-VN tham dự cuộc hành quân Lam sơn 719 nầy gồm toàn bộ 3 lữ đoàn. Với nhiệm vụ trừ bị cho quân đoàn I, chỉ nhảy vào vùng chiến ở những giai đoạn quyết định mà thôi. Giai đoạn đầu của cuộc hành quân là dùng trực thăng đổ quân xuống các cao điểm Bắc và Nam quốc lộ 9, giới hạn bởi Bản Đông nằm giữa trục tấn công từ biên giới đến Tchépone, thiết lập các căn cứ hoả lực, yểm trợ cho các cuộc hành quân phân tán lục soát trong tương lai. Xử dụng tối đa không trợ, đặc biệt các pháo đài B52 cầy nát mục tiêu trước khi dùng bộ binh đổ xuống Tchépone. Cuộc hành quân chính thức bắt đầu lúc 8 giờ sáng ngày 8, tháng 2 năm 1971 qua lời tuyên bố của TT Nguyễn văn Thiệu trên đài phát thanh Sàigòn: " Cuộc hành quân có giới hạn trong thời gian và không gian với mục tiêu duy nhất là phá vỡ hệ thống tiếp liệu và xâm nhập của CSBV trên phần đất Ai-Lao mà chúng chiếm đóng và xử dụng trong nhiều năm nay để tấn công vào QLVNCH. Ngoài ra QLVNCH không có tham vọng đất đai nào tại Ai-Lao vì VNCH luôn luôn tôn trọng nền độc lập và sự an toàn lãnh thổ của Vương Quốc Ai-Lao ". Lữ Đoàn I/ND gồm các tiểu đoàn 1 và 8 cùng Lữ Đoàn I/Thiết Giáp đi tiên phong tiến dọc quốc lộ 9 và hướng Bản Đông để thiết lập căn cứ A-Lưới. Đây là căn cứ lớn nhất của cuộc hành quân và cũng là nơi đặt bộ chỉ huy Lữ Đoàn I/ND. Trên mặt Bắc tiểu đoàn 2/ND và các pháo đội cơ hữu đến điểm cao 500m nằm cách quốc lộ 9 và biên giới Việt Lào hơn 8 Km để thiết lập căn cứ 30. Tiểu đoàn 3/ND cũng nhảy trực thăng vào cao điểm 456m lập căn cứ 31 và cũng là nơi đặt BCH Lữ đoàn 3/ND. Xa hơn nữa về mặt Bắc, Liên Đoàn 21/BĐQ gồm 2 tiểu đoàn 21 và 37 được trực thăng vận đến bãi đáp Ranger South cách căn cứ hỏa lực 30 khoảng 5 km về phiá Tây Bắc. Ba ngày sau tiểu đoàn 39/BĐQ được nhảy vào căn cứ Ranger North. Hai căn cứ nầy được thiết lập với mục đích quan sát sự chuyển quân của CS đồng thời làm trì hoãn các cuộc tấn công địch vào trục tiến quân chính.Trung Đoàn 3/SĐI/BB cũng được nhảy vào vùng tận cùng phiá Nam tại căn cứ Blue và Hotel, trong khi đó Trung Đoàn I/SĐI/BB vào hoạt động xung quanh căn cứ Delta. Mục tiêu 604 tại thị trấn Tchépone đã bị ta oanh tạc thật khủng khiếp và nhờ vậy các cuộc đổ quân của ta vào vùng nầy được hoàn tất mà không gặp được sự kháng cự nào. Địch hầu như biết trước ý định của ta nên đã phân tán mỏng ra xa để tránh thiệt hại, để rồi liền sau đó tập trung nhiều Sư Đoàn thiện chiến nhất để tấn công ta. Chiến dịch tổng phản công của địch được mở màn ngày 18/2 khi tăng cường áp lực bao vây và tấn công căn cứ Ranger North, trung đoàn 102 thuộc sư đoàn 308/CSBV đã áp đảo được căn cứ nầy. Thời tiết xấu và cường độ phòng không quá mạnh của CS khiến không quân không thể can thiệp hữu hiệu, đến chiều 19/2 căn cứ Ranger North bị tràn ngập, vị tiểu đoàn trưởng Vũ Đình Khang TĐ39/BĐQ đã bị bắt sống, bộ phận còn lại do tiểu đoàn phó chỉ huy di tản về Ranger South. Căn cứ Ranger North thất thủ, quân CS tiếp tục đánh chiếm căn cứ Ranger South, tìểu đoàn 21/BĐQ chỉ đủ sức cầm cự được 2 ngày với sự thiệt hại thật nghiêm trọng, sau đó được trực thăng vận bốc về Phú Lộc qua chuyển tiếp căn cứ 30 của Nhảy Dù. Thừa thắng xông lên vào ngày 23/2 địch bắt đầu tấn công thăm dò căn cứ 31, để rồi sau đó tung toàn bộ chiến xa tiến chiếm căn cứ nầy. Đại tá Nguyễn Văn Thọ lữ đoàn trưởng cùng một số sĩ quan tham mưu đã bị bắt sống, trong đó có những cái chết thật hào hùng của Thiếu Tá Hiền Tham Mưu Trưởng và Đại Úy Đương pháo đội trưởng đã tự kết liễu đời mình. Đúng 6 giờ 30 sáng ngày 25/2/71, căn cứ hỏa lực 31 Hạ Lào đã hoàn toàn lọt vào tay giặc. Ngày 26/2, CS dùng 2 trung đoàn thuộc SĐ304 tiếp tục tấn công căn cứ 30 cuối cùng căn cứ nầy cũng phải di tản chiến thuật và toàn thể các khẩu pháo cơ hữu của ta bị hư hại hoàn toàn. Trong khi địch tấn công ồ ạt ở mặt Bắc, thì tại khu vực Đông Nam các đơn vị của trung đoàn 3/BB cũng đã bị bao vây uy hiếp. Mặc dầu cũng đã được yểm trợ bởi không quân và pháo binh đầy đủ nhưng vẫn cầm cự không nổi, sau cùng cũng phải tìm nơi an toàn để được trực thăng bốc về Khe Sanh. Trước tình hình diễn biến ác liệt của chiến trường, hết đơn vị nầy đến đơn vị khác của ta chịu trận, không sao tiếp cứu lẫn nhau, dù đã có lần khi đồn 31 bị tấn công, SĐ Dù đã đổ bộ thêm vào trận địa một tiểu đoàn để tiếp sức nhưng không sao đáp xuống bải đáp được vì hỏa lực vô cùng mãnh liệt của địch. Về phương diện thông tin báo chí, khi các phóng viên đã thổi phồng tin tức biến những cuộc lui binh cuả chúng ta thành thảm kịch trên chiến trường, điều tệ hại nhất là đài BBC đã phóng đại việc quân ta tiến vào Tchépone trong khi cuộc hành quân mới nửa đường tới mục tiêu; chính việc nầy đã gây một sự bất lợi thật quan trọng cho việc hành quân vì địch quân đã nắm rỏ được ý định của ta nên đã sẵn sàng chuẩn bị nghênh chiến. Sư đoàn I/BB với trung đoàn 2 còn lại bằng mọi gía phải đánh chiếm Tchépone; dù chỉ là một tiểu đoàn được trực thăng vận vào trận địa cũng được, sau khi hoàn tất hoạt động trong thời gian ngắn rồi sẻ rút ra ngay. Trung đoàn I. SĐI/BB được điều quân lên mặt Bắc phía Nam sông Tchépone để tiếp ứng. Địch đã đoán được ý định của ta nên đã bố trí các đơn vị ra xa vùng sát hại dưới những trận mưa bom khủng khiếp của ta. Ngày 6/3, 120 trực thăng chuyên chở hai tiểu đoàn 2 và 4 của trung đoàn 2/SĐI/BB từ Khe Sanh đến bải đáp HOPE, cách Tchépone khoảng 4 km về phía Bắc. Hoả lực khá nặng của CS chỉ bắn rơi một trực thăng trong cuộc trực thăng vận đại qui mô nầy, ngày hôm sau quân đội VNCH tiến vào Tchépone mà không gặp một sự kháng cự nào của địch. Tình hình yên tỉnh cho tới khuya thì pháo địch bắt đầu tập trung bắn phá và điều động cả sư đoàn dùng chiến thuật biển người tấn công ta, trực thăng ta chỉ đến bốc được vài toán đầu, sau đó đành phải bó tay trước hỏa lực phòng không dầy đặc của địch, số còn lại phải mở đường máu di tản về hướng Nhảy Dù. Căn cứ Lolo tại cao điểm 723 nơi bộ chỉ huy trung đoàn I/BB cũng chịu chung số phận phải di tản sau 10 ngày đêm chiến đấu ròng rã. Tiểu đoàn 4 trung đoàn I/SĐI/BB là đơn vị ở lại sau cùng để bảo vệ cuộc lui binh, lúc về đến Khe Sanh chỉ còn 63 người trong tổng số 432 người, tất cả đều bị tử trận, mất tích hay bị thương. Trung tá Lê Huấn, K18 Đà Lạt, người hùng của trung đoàn I/SĐI/BB đã anh dũng hy sinh trong cuộc lui binh nầy. Mãi cho đến giờ phút nầy cũng chưa có ai có thể giải thích một cách rõ ràng tại sao các nhà lãnh đạo quân sự miền Nam đã ném quân sĩ thiện chiến của họ vào mặt trận Hạ Lào, một cuộc hành quân mạo hiểm có tính cách phô trương hơn là mang về một chiến thắng thật sự. Không cần bảo mật mà chẳng có kế hoạch phối hợp rõ ràng, hệ thống chỉ huy điều hành bị bối rối không được thống nhất. Các vị tư lệnh của 2 sư đoàn tổng trừ bị của quân lực VNCH là Trung Tướng Lê Nguyên Khang và Trung Tướng Dư Quốc Đống đã không hiện diện cùng binh sĩ tại mặt trận, mặc dầu đơn vị của họ là những nổ lực chính yếu của chiến trường. Sự thảm hại toàn bộ của các lực lượng tham chiến ở giai đoạn đầu thì việc đổ thêm quân tiếp vào giai đoạn kế tiếp quả là một điều chẳng nên, chỉ làm hao tốn thêm xương máu của binh sĩ mà thôi. Điều quan trọng nhất là còn tinh thần đâu nữa mà chiến đấu. Sư đoàn TQLC cuối cùng rồi cũng phải nhảy vào vòng chiến và cũng không sao tránh khỏi số phận "tan hàng" đang dành sẵn cho mình. Vào trận với một tâm lý không ổn định chuyện thất bại là điều chắc chắn sẽ xảy ra, chúng tôi như những con thiêu thân đang lao mình vào lửa đỏ. Mọi chuyện bắt đầu vào những ngày đầu tháng 3 năm 1971. Lữ đoàn 147/TQLC do Đại Tá Hoàng Tích Thông chỉ huy gồm các tiểu đoàn 2, 4 và 7 được nhảy vào căn cứ Delta. Đây là một dãy đồi có thế hình yên ngựa ở độ cao 550m gồm 2 mỏn nhỏ, mặt Bắc đặt BCH/LĐ, còn phía Nam chỉ có khả năng đủ chổ cho một pháo đội hỗn hợp gồm 2 khẩu 155ly và 4 khẩu 105 ly thuộc tiểu đoàn 2/PB/TQLC. Mặt Tây là một triền dốc đá thẳng đứng dựng, còn phía Đông là những rẫy hoang cùng nhiều đường mòn chi chít. Lữ Đoàn 258/TQLC được trực thăng vận vào đỉnh KOROC, căn cứ Đông Hà nằm trên ranh giới Lào Việt từ Lao Bảo trải dài xuống phía Nam với các tiểu đoàn 1, 3 và 8 cùng pháo đội của tiểu đoàn 3/PB/TQLC. Nhưng mặt trận chính vẫn là xung quanh vùng hoạt động của Lữ Đoàn 147. Tiểu đoàn 4/TQLC được thả xuống và bung rộng về hướng Đông Bắc, tiểu đoàn 2/TQLC chịu trách nhiệm về mặt Tây Bắc, trong khi đó tiểu đoàn 7/TQLC bảo vệ pháo binh và BCH/LĐ. Đại úy Nguyễn Hoa khoá 20 Đàlạt, trưởng ban 3/TĐ7/TQLC đã bị tử thương cùng nhiều binh sĩ khác trong cuộc pháo kích đầu tiên vào căn cứ hỏa lực. Tiểu đoàn 2/TQLC có 4 ĐĐT thì 2 đã bị thương loại khỏi vòng chiến đấu trong tuần lễ ra quân đầu tiên . Trung úy Kiều Công Cự ĐĐT/ĐĐ4, Đ/u Nguyễn Kim Thân ĐĐT/ĐĐ2, Tr/úy Bùi Ngọc Dũng ĐĐP/ĐĐ2, cũng đã bị thương rất nặng cùng Th/úy Trần Văn Loan. Tất cả đã được tải thương kịp thời nhưng Dũng bị chết dọc đường và sau nầy được ghi nhận là mất tích. Tr/úy Nguyễn Dũng Trí ĐĐP/ĐĐ5 được lệnh sang làm ĐĐT/ĐĐ2. Như cục đường bỏ vào hang kiến lửa, địch cứ thế mà bu vào. Sau khi đã rảnh tay ở mặt trận phía Bắc, địch tập trung đủ mọi nổ lực kể cả hệ thống phòng không pháo binh hầu uy hiếp cô lập căn cứ. Hai trực thăng của QLVNCH đã bị bắn hạ nhưng vẫn cố gắng đáp xuống được ngay bãi đáp tại BCH/LĐ, phi hành đoàn an toàn. Đó là phi vụ cố gắng cuối cùng trong chuyến liên lạc với BCH/LĐ. Sau đó việc tiếp tế, tản thương coi như hoàn toàn bế tắc. Chỉ mới vỏn vẹn có một tuần mà bao nhiêu điều bế tắc đã xảy ra, binh sĩ bị thương mỗi ngày một nhiều không được tải thương, đạn dược lương thực bị hao hụt dần, đa số binh sĩ hoang mang giao động không còn tinh thần chiến đấu. Pháo binh cơ hữu của ta bị kiệt quệ hoàn toàn, mọi sự yểm trợ nhờ vào LĐ/258 tại KOROC và các phi vụ oanh tạc của không quân Hoa Kỳ. Tiểu đoàn 2/TQLC bị địch chận đánh khi hoạt động cách căn cứ khoảng 4-5 km, trong một phi vụ yểm trợ một quả bom đã lạc và nổ ngay vị trí của ĐĐ5 làm tổn thương thêm một số binh sĩ, tiểu đoàn được nhận lệnh dừng ngay tại chổ chờ lệnh. Về phiá TĐ4/TQLC cũng không có gì sáng sủa hơn, vẫn bị địch cầm chân và quân số mỗi ngày thêm hao hụt. Chẳng có một kho tàng nào của địch bị ta phá hủy trong giai đoạn nầy, trước tình thế đó, BCH/LĐ điều động TĐ2 và TĐ4 về hoạt động chung quanh căn cứ để sẳn sàng cho một cuộc rút quân trong tương lai. Biết được ý định đó nên địch càng bám theo ta rất sát, ĐĐ5/TĐ2/TQLC là ĐĐ tiền đồn ở mặt Bắc căn cứ hầu như ngày nào cũng bị địch tấn công, trong khi tất cả lực lượng của TĐ4/TQLC đã rút qua mặt về phía trong BCH/LĐ. Th/tá Nguyễn Xuân Phúc tiểu đoàn trưởng cùng Đ/úy Trần Văn Hợp tiểu đoàn phó TĐ2/TQLC cũng được điều động về nằm chung với BCH/LĐ. Một biến cố đã xảy ra thật quan trọng là một trung đội đặc công VC đã xâm nhập và chiếm được một số vị trí của đơn vị phòng thủ, với ý địch cắt đứt mọi tiếp viện từ ngoài vào để tung quân tràn ngập BCH/LĐ. Tuy nhiên, địch cũng đã bị chận lại và sau đó một đại đội TĐ7/TQLC tới giải tỏa, địch tử thương một số, phần còn lại đầu hàng. Tất cả chúng thuộc SĐ/324B có nhiệm vụ tiến đánh LĐ147. Lữ Đoàn đã có lệnh di tản chiến thuật từ quân đoàn nhưng lệnh nầy chỉ phổ biến đến cấp tiểu đoàn trưởng mà thôi. Lý do thật giản dị là cố gắng duy trì tinh thần chiến đấu của các đơn vị hầu đủ thời gian sắp xếp cho một kế hoạch rút lui. Đại đội A Viễn Thám của Đ/úy Hiền đã được lệnh lên đường tìm hiểu tình hình địch nhưng tất cả lọt vào vòng vây địch, một số bị bắt trong đó có ĐĐT nên Lữ Đoàn không nhận được một tin tức nào cả. Theo kế hoạch B52 sẽ thả bom trước ở 2 mặt phía Nam Bắc và Lữ Đoàn sẽ bắt đầu di chuyển ra khỏi căn cứ lúc 08 giờ tối, theo thứ tự TĐ4, TĐ7, BCH/LĐ và pháo binh, TĐ2 đi đoạn hậu. Tất cả khẩu pháo binh cùng đạn dược và lương thực dự trử bỏ tại chổ. Trong đó có gần 60 thương bệnh binh cùng nhiều tử thi đã bị thối rữa trong nhiều ngày. Một số tù binh CS cũng bị ta còng tay nhốt trong các hầm trú ẩn gần đó. Trước giờ ấn định tình hình đã biến đổi khác thường một cách thật nhanh chóng. ĐĐ5/TĐ2/TQLC do tôi chỉ huy đã bị cô lập tại chổ trong mấy ngày liền không được tải thương và tiếp tế. Tất cả điểm có nước dưới chân đồi đều bị bao vây chế ngự. Trời tháng 3 với những cơn gió nắng rát miền Hạ lào cùng những đợt tấn công pháo kích liên tiếp của địch đã không làm nản đi ý chí quyết sống của chúng tôi, vì chẳng ai còn cách nào chọn lựa khác hơn là "PHẢI SỐNG" để được trở về bằng chính sức lực của mình. Đó là vào những ngày cuối của cuộc hành quân 21, 22/3/1971. Chúng tôi được lệnh lui binh về gần BCH hơn ...để tránh thiệt hại. Th/úy Kim trung đội trưởng vũ khí nặng cùng hạ sỉ Nghạch đã bị tử thương sau một loạt pháo kích bằng súng cối 82 ly của địch vào vị trí. Trong khi có tiếng chiến xa địch từ xa, bắt đầu mon men vào tuyến. Đó là lúc 5 giờ chiều ngày 22/3/71 và BCH/LĐ đã rút lui trước sớm hơn dự định. Đại đội tôi được lệnh di tản sau đó một tiếng đồng hồ khi chiếc T54 đầu tiên của CS bị hạ bằng khẩu SKZ 57 ly từ tay Tr/sĩ I Nguyễn Tế. Giọng Th/tá Phúc vang lên trong máy ra lệnh cho tôi '"anh phải cho con cái move down south gấp ". Bật chạy ra khỏi hầm trú ẩn. Tôi hô to "Đ/úy Tiền ĐĐT/ĐĐ5/TĐ2/TQLC đây, các anh hãy theo tôi", vẫn cứ thế tôi mãi lải nhải vào tận phía trong. BCH/LĐ trống vắng, mùi thúi rữa của tử thi nơi những chiếc poncho bọc kín không được tải thương trong nhiều ngày, vài chục người trong toán lính bị thương còn lại đang hờn trách cấp chỉ huy, tôi vẫn hô to "Đ/úy Tiền đây, các anh hảy theo tôi" giọng Hạ sĩ Báu người lính gan dạ của đại đội tôi bị thương vào chân hôm qua khóc to nhất "chân em bị gãy làm sao chạy được ông thầy". Nước mắt tôi tuông chảy, miệng lẩm bẩm "đành chịu vậy thôi! chứ biết làm sao bây giờ" trong khi đèn chiến xa địch bắt đầu soi sáng và bắn nả theo lên đồi căn cứ. Không thể chần chờ được nữa, có tiếng hô to của giặc phía sau "Hàng sống chống chết", tôi và 2 hiệu thính viên: Đặng Phước Thành và Nguyễn Văn Chúc cùng nắm giây leo trên đỉnh dốc đá thẳng đứng "một, hai, ba, ò e con ve đánh đu, tarzan nhảy dù", chiếc dây qúa tải bị đứt nửa chừng thầy trò rớt chồng lên nhau trên mặt đất.Tay mò mẫm khắp nơi trên cơ thể, đứng lên ngồi xuống, mới yên tâm là mình còn đủ sức để mưu sinh thoát hiểm.Chúc nhe hàm răng vàng óng ánh "Có ông bà độ đó ông thầy". Tôi tập hợp tại chổ được vài ba chục mạng người, gồm nhiều đơn vị khác nhau. Tôi ra lệnh là muốn sống phải theo tôi và tuyệt đối giữ kỷ luật khi di chuyển. Th/tá Phúc (TĐT) và Đ/úy Hợp (TĐP) vẫn lên máy điều động và hướng dẫn chúng tôi theo nhiều trái sáng liên tiếp được bắn lên từ KOROC. Không cần xử dụng bản đồ và địa bàn, chúng tôi cứ nhắm hướng có trái sáng mà đi tới. Khoảng hơn nửa đêm về sáng, chúng tôi lọt ngay vào vòng địch có tiếng hô to của người lính gác: "các đồng chí đi đâu về khuya thế.?". Toán đi đầu hốt hoảng dội ra, nhanh ý tôi điều động anh em đi hướng khác. Sáng hôm sau, trời nắng đẹp bầu trời xanh thẫm, ra khỏi khu rừng rậm là những dãy đồi tranh đầy cỏ dại loang lỗ nhiều hố bom chạy dài xa tít. Hạ sĩ Thất vẫn còn mang chiếc máy truyền tin trên lưng chạy đến tìm tôi khóc mếu máo: "Đại bàng ơi.! Th/úy em chết rồi ". Đinh Hồng Lạc là sĩ quan trẻ thâm niên nhất trong đại đội tôi, đẹp trai với làn da trắng mịn như con gái, người Cần Thơ và rất mùi với 6 câu vọng cổ.Chính mắt tôi thấy anh ngã gục khi có lệnh của tôi, vừa vọt ra khỏi miệng hầm, một viên đạn thượng liên trên pháo tháp xe địch đã xuyên qua màng tang. Xác anh nằm vắt ngang bên vệ đường. Chiếc đầm già L19 xuất hiện quan sát bao vùng cùng vài chiếc trực thăng võ trang của Mỹ đã làm chúng tôi an tâm hơn. Trái khói vẫn tiếp tục bắn chỉ điểm nơi điểm hẹn. TĐ3/TQLC Sói biển được điều động từ KOROC tới để cứu nguy cho chúng tôi. Địch tốc tới, tiếp tục tấn công vào bải bốc tại điểm tập trung nầy, phi cơ Mỹ chỉ có thể tản thương được một vài đợt đầu tiên, sau đó với sự chiến đấu gan dạ của TĐ3 chúng tôi tiếp tục di chuyển tiếp đến một địa điểm an toàn khác. Tập họp lại khi về đến Khe Sanh đại đội tôi chỉ vỏn vẹn còn vài chục chục thầy trò, phải mất gần 1 tuần lễ sau, những toán thất lạc lần lượt được các trực thăng Mỹ chở về. Đại đội tôi mất đi gần phân nửa, một hao hụt qúa lớn lao. Bộ tư lệnh QUÂN ĐOÀN I đã vinh danh chiến thắng HẠ LÀO bằng một cuộc diễn binh rầm rộ tại PHÚ VĂN LÂU, nhiều huy chương và thăng cấp cho các quân nhân tham dự. Trong đó có các đơn vị trưởng tại chiến trường. Th/tá Phúc và Đ/úy Hợp của TĐ2/TQLC cũng không ra ngoài ngoại lệ đó. Còn tôi và Đ/úy Lâm Tài Thạnh ĐĐT/ĐĐI mỗi người một Đệ Ngũ Bảo Quốc Quân Chương với nhành dương liễu. Ngày nay khi ngồi hồi tưởng lại mặt trận Hạ Lào, bao hình ảnh thân thương của những người lính trong đơn vị như còn lảng vảng đâu đây. Th/úy Nguyễn Kim đã chết bất ngờ trong giờ phút cuối khi chỉ mơ ước về đúng lúc ngày đứa con đầu lòng được chào đời. Th/úy Đinh Hồng Lạc không còn nữa để nàng con gái Kim Oanh bên dòng sông Kiên Long mòn mỏi chờ đợi. Chuẩn úy Lê Văn Quế và Tr/sĩ I Tế đã lạc lỏng đâu đó trong rừng Hạ Lào không có mặt khi về lại Khe Sanh. Hạ sỉ Báo, Tr/sĩ Được, binh nhì Ngô Văn Lẹ và bao nhiêu người thương binh khác đã ra sao.? Khi những trận bom liên tiếp dội xuống căn cứ Delta sau khi đoàn quân ta đã di tản. Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà đã chiến thắng tại các chiến trường Kampuchia, An Lộc, Quảng Trị nhưng rõ ràng chúng ta không thắng tại Hạ Lào. Ai chiến thắng mà không hề chiến bại, Ai nên khôn mà chẳng dại một... đôi lần Đã đến lúc chúng ta hảy trả lại SỰ THỰC cho LỊCH SỬ, mặc dầu đó là một sự thực đau lòng. Tôi xin ghi lại câu nói "để đời" của Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm, người chịu trách nhiệm chỉ huy tổng quát của cuộc hành quân nầy với Đại Tá Hoàng Tích Thông LĐT/LĐ147/TQLC: "Sao Thủy Quân Lục Chiến, nó về được nhiều thế nhỉ.!." ARLINGTON, tháng 10-2003 MX Phạm văn Tiền. http://www.vietlandnews.net/forum/showthread.php?t=16980&page=6